ĐỊNH LƯỢNG PlGF (Placenta Growth Factor)
PlGF là một protein thuộc nhóm VEGF (Vascular Endothelial Growth Factor – yếu tố tăng trưởng nội mô). Ở người có ít nhất bốn loại PlGF là PlGF-1, PIGF-2, PIGF-3 và PlGF-4. PlGF-1 là một protein dimer bao gồm hai monomer giống hệt nhau trong đó mỗi monomer chưa 131 acid amin. Hai monomer được liên kết với nhau bằng liên kết cộng hóa trị và cầu nối disulfide, khi được glycosyl hóa nó có trọng lượng phân tử 46 kDa. PlGF-2 có 170 acid amin bao gồm cả đọan peptide tín hiệu 18 acid amin. PlGF-3 có 203 acid amin. PlGF-1 và PlGF-3 liên kết với VEGFR1 (còn gọi là Flt-1) tạo phức hợp bám trên màng các tế bào nội mô mạch máu. PlGF-4 có 224 acid amin bao gồm các trình tự như PlGF-3, cộng với một vùng gắn kết heparin mà trước đây được cho là chỉ có trong PlGF-2.
PlGF ban đầu được cho là có nguồn gốc rau thai và được đặt tên là yếu tố tăng trưởng rau thai (Placelta Growth Factor – PlGF). Sau này, PlGF còn được thấy trong một số cơ quan khác như tim, phổi, tuyến giáp, cơ xương, và mô mỡ nhưng không có ở thận và tuyến tụy. PlGF có vai trò trong tăng tân tạo mạch máu. Xét nghiệm PlGF (kết hợp với sFlt-1) được chỉ định trong chẩn đoán sớm và chẩn đoán phân biệt tiền sản giật. |
NGUYÊN LÝ
PlGF được định lượng bằng phương pháp miễn dịch sandwich sử dụng công nghệ điện hóa phát quang. PlGF có trong mẫu thử đóng vai trò kháng nguyên được kẹp giữa hai kháng thể, kháng thể thứ nhất là kháng thể đơn dòng đặc hiệu kháng PlGF đánh dấu biotin, kháng thể thứ hai là kháng thể đơn dòng đặc hiệu kháng PlGF đánh dấu ruthenium (chất có khả năng phát quang) tạo thành phức hợp miễn dịch kiểu sandwich. Cường độ phát quang tỷ lệ thuận với nồng độ PlGF có trong mẫu thử.
CHUẨN BỊ
Người thực hiện
01 cán bộ đại học, 01 kỹ thuật viên chuyên ngành hóa sinh.
Phương tiện, hóa chất
Phương tiện: Máy xét nghiệm như Cobas e411, e170. e601….
Hóa chất: Hóa chất xét nghiệm PlGF, chất chuẩn PlGF, chất kiểm tra chất lượng PlGF.
Người bệnh
Người bệnh cần được giải thích về mục đích của việc lấy máu để làm xét nghiệm.
Không dùng các thuốc có Biotin ít nhất 8 giờ trước khi lấy máu
Phiếu xét nghiệm
Phiếu xét nghiệm cần ghi đầy đủ thông tin về tên, tuổi, giới tính, khoa phòng, chẩn đoán của người bệnh và ghi rõ chỉ định xét nghiệm
CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH
Lấy bệnh phẩm
Lấy 3 ml máu tĩnh mạch vào ống không có chất chống đông do xét nghiệm này yêu cầu sử dụng huyết thanh.
Sau khi lấy máu, đem ly tâm tách lấy huyết thanh.
Bệnh phẩm ổn định 8h ở 2 – 8°C, 4 tháng ở -20°C.
Bệnh phẩm chỉ rã đông 1 lần và phải để bệnh phẩm đạt nhiệt độ phòng trước khi phân tích. Để tránh hiện tượng bay hơi, bệnh phẩm, chất chuẩn, chất kiểm tra chất lượng nên phân tích trong vòng 2 h.
Tiến hành kỹ thuật
Máy phân tích cần chuẩn bị sẵn sàng để thực hiện phân tích mẫu: Máy đã được cài đặt chương trình xét nghiệm PlGF. Máy đã được chuẩn với xét nghiệm PlGF. Kết quả kiểm tra chất lượng với xét nghiệm PlGF đạt yêu cầu không nằm ngoài dải cho phép và không vi phạm luật kiểm tra chất lượng.
Người thực hiện phân tích mẫu nhập dữ liệu về thông tin người bệnh và chỉ định xét nghiệm vào máy phân tích hoặc hệ thống mạng (nếu có).
Nạp mẫu bệnh phẩm vào máy phân tích
Ra lệnh cho máy thực hiện phân tích mẫu bệnh phẩm
Đợi máy phân tích mẫu theo protocol của máy
Khi có kết quả cần xem xét đánh giá kết quả sau đó in báo cáo hoặc ghi kết quả vào phiếu xét nghiệm để trả cho người bệnh.
NHẬN ĐỊNH KẾT QUẢ
PlGF thay đổi theo tuổi thai, giá trị tham chiếu như sau:
10 – 14 tuần: 29.4 – 62.8 – 183 pg/mL
15 – 19 tuần: 65.7 – 135 – 203 pg/mL
20 – 23 tuần: 125 – 265 – 541 pg/mL
24 -28 tuần: 130 – 412 – 1108 pg/mL
29 -33 tuần: 73.3 – 439 – 1108 pg/mL
34 – 36 tuần: 62.7 – 232 – 972 pg/mL
>37 tuần: 52.3 – 161 – 659 pg/mL
Khi làm xét nghiệm PlGF thường được làm cùng với sFlt-1 và tính tỷ số sFlt-1/PlGF. Bình thường tỷ số đó như sau:
10 – 14 tuần: 5.21 – 22.7 – 57.3
15 – 19 tuần: 4.32 – 12.6 – 26.9
20 – 23 tuần: 2.19- 6.08 – 14.8
24 -28 tuần: 1.01 – 3.8 – 16.9
29 -33 tuần: 0.945 – 4.03 – 86.4
34 – 36 tuần: 1.38 – 13.3 – 92.0
>37 tuần: 3.65 – 26.2 – 138
Lưu ý: Giá trị tham chiếu trên đây được đưa ra dựa trên những nghiên cứu ở thai phụ thuộc chủng tộc Âu – Mỹ. Giá trị này có thể thay đổi phụ thuộc vào chủng tộc, do vậy cần xây dựng giá trị tham chiếu riêng cho nơi áp dụng.
PlGF có thể sử dụng trong một số bệnh lý như tim mạch, ung thư. Song xét nghiệm PlGF trình bày trong quy trình này dành riêng cho tiền sản giật:
Trong tiền sản giật, PlGF giảm từ ba tháng giữa thai kỳ nên được dùng để chẩn đoán sớm tiền sản giật kết hợp với sFlt-1 tăng và tỷ số sFlt-1/PlGF tăng.
Dùng chẩn đoán phân biệt tiền sản giật trong trường hợp thai phụ mắc một số bệnh nội khoa như Tăng huyết áp, Hội chứng thận hư, Lupus ban đỏ hệ thống… trước khi mang thai mà các bệnh này có triệu chứng tương tự tiền sản giật.
Dùng trong tiên lượng nguy cơ và quản lý tiền sản giật.
NHỮNG SAI SÓT VÀ XỬ TRÍ
Sử dụng nhầm bệnh phẩm: Sử dụng huyết tương thay vì sử dụng huyết thanh. Khắc phục: Người lấy mẫu máu cần nắm rõ yêu cầu về bệnh phẩm trước khi lấy máu và lưu ý dùng đúng ống đựng mẫu. Khi nhận mẫu máu, người nhận cũng cần kiểm tra xem ống máu có đúng yêu cầu không.
Những yếu tố gây nhiễu cho kết quả xét nghiệm. Kết quả xét nghiệm không bị ảnh hưởng khi:
Huyết thanh vàng: Bilirubin
Tán huyết: Hemoglobin
Huyết thanh đục: Triglyceride
Biotin 5 mg/ngày cần lấy máu xét nghiệm ít nhất 8h sau khi sử dụng Biotin lần cuối.
Không có hiệu ứng “high-dose hook” (Hiệu ứng mẫu bệnh phẩm có nồng độ cao) khi nồng độ PlGF tới 100 000 pg/mL.
RF
Khắc phục: Có thể hòa loãng bệnh phẩm và thực hiện lại xét nghiệm sau đó nhân kết quả với độ hòa loãng (Trường hợp có hòa loãng tự động trên máy thì kết quả không cần nhân với độ hòa loãng do máy đã tự tính toán).