Nội dung

Giám định pháp y tâm thần

Đại cương giám định pháp y tâm thần.

Khái niệm:

Pháp y tâm thần (PYTT)  là một  bộ  phận  của Tâm  thần  học,  phát  triển cùng  với sự phát triển chung của ngành Tâm thần học.  Nếu như  Tâm  thần bệnh học chỉ chú ý nghiên cứu vấn đề chẩn đoán, tìm nguyên nhân và tính chất bệnh với mục đích chữa bệnh và phòng bệnh thì PYTT chủ yếu nghiên  cứu mối liên hệ đặc biệt của các trạng thái rối loạn tâm thần đối với những vấn đề dân sự và hình sự.

Công tác giám định PYTT có mối liên quan mật thiết  giữa  các  ngành  Y tế, Công an, Viện kiểm sát, Toà án.

Người bệnh tâm thần do bị rối loạn về ý thức, cảm xúc, tư duy và hành vi tác phong… dẫn đến chỗ phá hoại mối  quan  hệ  đúng đắn giữa người bệnh với  tập thể, với xã hội. Nhiều trường  hợp  làm  mất  khả  năng  lao  động,  khả  năng  phục  vụ trong quân đội, khả  năng  sử  dụng  quyền  công  dân  và  khả  năng chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Vì vậy  nhiệm  vụ  của giám  định PYTT là giúp  đỡ  cho  Công an, Toà án xác định chính  xác  những  bị  can  nghi  có  rối loạn tâm thần,  xác  định họ có bị bệnh tâm thần hay không?  bệnh  gì? mức độ  bệnh  ra sao? có  giả bệnh  hoặc làm tăng triệu chứng bệnh không? trách nhiệm của bị  can  đối  với  hành  vi phạm pháp thế nào? …

Giám định PYTT còn nhằm  bảo  vệ  quyền  lợi  cho  bệnh  nhân  tâm thần cũng như trách nhiệm của xã hội về những thiệt thòi dân sự.

PYTT còn có  nhiệm  vụ  giám  định trạng thái  tâm  thần  của người  làm  chứng và người bị thiệt hại  nghi  có  rối  loạn tâm thần trong các  vụ  án hình sự cũng như  các vụ kiện dân sự, giám định khả năng hành vi dân  sự  và  khả  năng  chịu  trách nhiệm của những người có liên quan  trong  các  vụ  kiện dân  sự mà nghi  có  rối  loạn tâm thần.

Năng lực chịu trách nhiệm:

Trong giám định PYTT vấn đề quan trọng là vấn đề xác  định năng lực  trách nhiệm hình sự.

Theo nguyên tắc cơ bản của pháp luật  thì  những  người  bình  thường  trên  14 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm trước pháp luật  về  hành  vi  phạm  pháp  của mình.

Người bị tâm thần được thừa nhận  là mất  năng  lực  chịu trách nhiệm  hình  sự chỉ khi nào do trạng thái rối  loạn  tâm thần cấp tính hoặc  mạn tính mà họ  không  nhận thức được, điều khiển được hành vi của mình.  Rối  loạn hoạt  động tâm thần đến mức người bệnh không hiểu được  hậu  quả  về hành  động  của  mình,  không nhận thức được tính chất nguy hại đối với xã hội và  tính chất  phi  pháp của những hành động do họ gây nên.

Giám định viên PYTT căn cứ tài liệu thực tế về  y học,  nghiên  cứu trạng thái tâm thần của bị can trong lúc phạm tội để giải quyết vấn đề năng lực trách nhiệm.

Tiêu chuẩn y học:

Tiêu chuẩn y học là vấn đề chẩn đoán bệnh tật, ví  dụ như  bệnh tâm  thần phân  liệt, bệnh ĐK, bệnh loạn thần phản ứng…  nhưng  không  phải  mọi  bệnh  tâm  thần đều được miễn trách nhiệm về hành vi phạm pháp mà còn phải nghiên  cứu từng trường hợp cụ thể.

Có những bệnh như bệnh TTPL, liệt toàn thể tiến triển thì chỉ chỉ một số ít  trường hợp, người bệnh mới được xem là có đủ  năng  lực  chịu  trách  nhiệm.  Nhưng có những bệnh như nhân cách bệnh  thì  chỉ  những  trường  hợp  cá  biệt, người bệnh mới được xem là không đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Tiêu chuẩn pháp luật:

Gồm 2 yếu tố: về khả năng  nhận  thức  được  hành  vi  và  về  khả  năng  ý  chí kiềm chế, chỉ đạo được hành vi của mình.

Nội dung tiêu chuẩn  pháp  luật  không  nên có  sự  giải  thích thu hẹp.  Thực  tế  có một số người có những hành  vi  xét  bề  ngoài  thì  hành  vi  của  họ  như  có  dự tính rất chính xác nhưng như vậy không có nghĩa là họ vẫn  còn đủ năng lực  chịu  trách nhiệm.

Vấn đề không phải chỉ là năng lực  nhận  thức  được  hành  vi  mà  còn đòi  hỏi phải có năng lực nhận thức được tính  chất  nguy  hiểm  đối  với  xã hội của những hành vi đó.

Ý nghĩa của tiêu chuẩn pháp  luật  là phân  tích, đánh giá được  cụ thể  tính chất  và mức độ nặng nhẹ trạng thái rối  loạn tâm  thần  của bị  can khi  gây  án.  Do  đó  phải có đầy đủ những đặc trưng của  2  tiêu chuẩn  y  học  và  tiêu chuẩn pháp luật mới có đủ căn cứ để xác định năng lực trách nhiệm hình sự.

Giám định viên căn cứ vào tình hình bệnh  tật  và  tính  chất  nguy  hiểm  của những hành vi do bệnh  nhân  gây  nên  mà nêu  ý  kiến  về  phương  pháp  chữa bệnh bắt buộc hay không bắt buộc đối với những  người  được  xem  là  miễn  năng  lực trách nhiệm hình sự và đối với những người bị bệnh tâm thần sau khi phạm pháp.

Điều trị bắt buộc áp dụng đối với những người bệnh tâm thần có hành vi  phạm pháp nghiêm trọng như chém chết người,  đánh  người  gây  thương  tích,  mưu  sát, phá rối trật tự trị an.

Việc điều trị bắt buộc và quyền  đình  chỉ  điều trị  bắt  buộc  do  toà án  quyết định sau khi có sự nhận xét đánh giá trạng thái tâm thần bệnh  nhân  của bác  sĩ chuyên khoa tâm thần.

Tổ chức giám định pháp y tâm thần.

Tổ chức GĐPYTT được thành lập ở cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành phố.

Cấp trung ương (bộ y tế):

Căn cứ vào tình hình thực tế, ở nước  ta có 2  địa điểm thường  trực  tiếp nhận các trường hợp giám định cấp Trung ương. Địa điểm một tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương I chịu trách nhiệm cho các tỉnh, thành phố phía Bắc và chung cho cả nước. Địa điểm hai tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương II (tại  Biên Hoà) cho các  tỉnh phía Nam.

Cấp tỉnh, thành phố:

Do UBND ra quyết định theo đề nghị của Sở Y tế và Sở Tư pháp và bộ phận thường trực đặt tại cơ sở chuyên khoa tâm thần.

Tiêu chuẩn giám định viên pytt:

Có phẩm chất chính trị tốt.

Có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên.

Có thâm niên công tác về nghiệp vụ chuyên môn đó ít nhất là 5 năm.

Nơi nào có 3  giám  định viên tâm thần trở lên thì  thành lập tổ  giám định PYTT và bổ nhiệm một giám định viên trưởng.

Nhiệm vụ và quyền hạn của giám định viên:

Nhiệm vụ:

Thực hiện các nội dung giám định theo yêu cầu của cơ quan trưng cầu.

Kết luận giám định bằng văn bản và  chịu  trách  nhiệm  trước pháp luật  về  kết luận đó.

Giải thích bản kết luận giám  định theo  yêu cầu của cơ  quan  tiến hành  tố  tụng.

Giám định bổ sung hoặc giám định lại khi cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu.

Không được để lộ tài liệu và kết quả giám định.

Tuân thủ các qui định khác của pháp luật tố tụng.

Người nào  từ  chối  hoặc  trốn tránh trách nhiệm  kết luận giám định thì bị xử  lí theo điều 242/BLHS.

Quyền hạn:

Từ chối việc thực hiện giám định trong trường hợp thời gian không đủ để tiến hành giám định.

Yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bổ sung tài liệu và tạo mọi điều kiện cần thiết phục vụ cho việc giám định.

Viết kết luận riêng  của mình vào  bản  kết  luận chung nếu không thống nhất  với kết luận chung (trường hợp giám định tập thể).

Khi tham gia giám định tại hội đồng xét xử, giám định viên được hỏi bị can.

Trong khi tiến hành  giám  định, giám  định viên được  cơ quan  pháp  luật  bảo vệ tính mạng, tài sản và danh dự.

Giám định viên trưởng:

Theo  quy  định hiện hành,  nhiệm  vụ  của giám  định viên  trưởng như sau:

Giúp  thủ  trưởng ngành  chuyên  môn quản  lí danh  sách giám  định viên.

Đầu mối liên hệ công tác với các cơ quan hữu quan.

Cử giám định viên tham gia giám định kịp thời từng vụ việc.

Phân cấp giám định:

Giám định viên cấp trung ương:

Giám định các vụ việc do cơ quan tố tụng trung ương ngang cấp trưng cầu.

Giám định các trường hợp vượt quá khả năng  chuyên môn tuyến tỉnh, thành  phố nhưng phải thông qua ngành dọc, cấp trên của  cơ  quan  trưng  cầu  ra  quyết định.

Giám định cấp tỉnh, thành phố:

Giám định các vụ việc do cơ  quan  tố  tụng địa phương trưng cầu (tỉnh, thành  phố, huyện, quận).

Thẩm quyền trưng cầu giám định pytt:

Đối với các trường hợp khi đưa ra xét xử, mọi  người  công dân,  kể  cả bị  can, đều có quyền yêu cầu giám định nhưng chỉ có cơ quan tố tụng mới  có quyền ra  quyết định trưng cầu giám định.

Các hình thức giám định pháp y tâm thần.

Giám định nội trú:

Hình thức này giám định  với  những  trường  hợp  khó  khăn  và  phức  tạp  cho việc chẩn đoán bệnh cũng như xác định năng lực trách nhiệm hình sự. Can  phạm  được lưu lại tại cơ sở giám định PYTT của bệnh viện chuyên khoa tâm thần.

Giám định viên có trách nhiệm theo dõi khám xét lâm sàng, cho làm các xét nghiệm cần thiết phục vụ  cho  giám  định. Đồng thời  nghiên cứu hồ  sơ tài  liệu do cơ quan trưng cầu giám định cung cấp. Khi đủ điều kiện thì tiến hành giám định và làm văn bản kết luận. Thời gian lưu can phạm  để  làm giám định tại cơ sở giám định nội trú trung bình 6 tuần. Nếu thấy cần thiết kéo dài  thêm nhưng  phải thông  báo cho cơ quan trưng cầu giám định rõ.

Giám định tại phòng khám:

Áp dụng những trường hợp đơn giản để chẩn đoán và xác định năng lực trách nhiệm hình sự. Can phạm được đưa tới  phòng  khám  chuyên  khoa,  tại  đó  giám định viên tiến hành thăm dò và cho kết  quả  giám  định.  Đương  nhiên giám  định viên đã phải nghiên cứu hồ sơ và cho làm các  xét  nghiệm cần thiết  phục  vụ  cho giám định trước đó.

Giám định tại chỗ:

Đối với một số trường hợp  nếu  như  sau khi  giám  định viên xem xét  thấy có thể tiến hành giám định tại chỗ được và  thuận  lợi  thì  tiến hành.  Thường  thì  áp dụng đối với  trường hợp đang bị  giam  giữ,  nếu đưa ra ngoài  có  khó  khăn về  quản lí và phức tạp về chuyên môn.

Giám định tại hội đồng xét xử :

Hình thức giám định tại hội đồng xét  xử  chỉ  áp dụng cho  những trường hợp bệnh tật đã rõ ràng và đã có thời gian  điều trị  nội  trú.  Mục  đích của hình thức  giám định này thực chất là giám định viên  được  trưng cầu tại  hội đồng xét xử để làm sáng tỏ thêm kết  luận  của tập thể  giám  định hoặc  của mình cho hội đồng xét xử và bên tham dự rõ.

Giám định vắng mặt:

Giám định vắng mặt là những trường  hợp  giám  định  đặc  biệt,  thường  gặp trong pháp y tâm thần, khi không có mặt bị  can hoặc  bị  cáo. Khi  cả hai  bên đều vắng mặt, có thể gọi là giám định theo hồ sơ.

Thường là giám định bị can gây án, người bị hại bị chết, sau đó bị  can tự sát  thành công. Việc giám định chỉ còn dựa vào các hồ sơ và những người làm chứng.

Ngoài ra, khi giám định những trường hợp  hồ  sơ  đầy  đủ,  song  toà án  hoặc viện kiểm sát còn nghi  ngờ  kết  luận  của  hội  đồng giám định pháp y này và  giao  hồ sơ cho hội đồng giám định khác.

Những trường hợp cần  đánh  giá  về khả  năng  hành  vi  của  những  người  đã chết trong các vụ kiện dân sự được gọi là giám định vắng mặt một  bên (hay một phần).