Nội dung

Giảm sinh tủy – suy tủy xương(aplastic anemia)

Định nghĩa

Suy tuỷ xương là một tình trạng bệnh lý được đặc trưng bởi sự giảm sản hoặc bất sản tế bào tuỷ, dẫn đến giảm một, hai hoặc ba dòng máu ngoại vi.

Lịch sử bệnh

Bệnh suy tuỷ xương được Paul Ehrlich mô tả đầu tiên vào năm 1888. Ông miêu tả một bệnh nhân là phụ nữ trẻ: sốt, thiếu máu đã chết vì thiếu máu, xét nghiệm máu cho thấy giảm hồng cầu và bạch cầu hạt trầm trọng.

Việc khám nghiệm tử thi cho thấy tuỷ xương rất nhiều mõ và rất nghèo tế bào, sau đó cái tên Alastic anemia đã được đặt cho căn bệnh này vào năm 1904. Trong suôt 30 năm tiếp theo đã có nhiều công trình nghiên cứu về bệnh này. Từ 1930 khi lấy được mẫu tuỷ lúc bệnh nhân còn sống vấn đề chẩn đoán không còn khó khăn. Tuy nhiên, cơ chê bệnh sinh còn chưa rõ ràng.

Tỷ lệ mắc bệnh

Tỷ lệ mắc giữa nam và nữ là 1, bệnh gặp ở tất cả các lứa tuổi nhưng chủ yếu ở tuổi từ 16 – 45, chiếm 76 %. Một số nghiên cứu ở các nước phát triển đã cho thấy ở Thuỵ Điển 13/1 triệu dân trong 1 năm. Pháp 1,5/1 triệu dân/năm. Israel 8/1 triệu dân/năm. Mỹ 5 – 2/1 triệu dân/năm. Tỷ lệ chung cho thấy tỷ lệ mắc bệnh suy tuỷ xương ở cốc nước công nghiệp phát triển là 5 – 10/1 triệu dân/năm.

Ở Việt Nam bệnh suy tủy xương đứng hàng thứ 3 trong các bệnh về máu và cơ quan tạo máu. Sau lơ xê mi cấp và xuất huyết giảm tiểu cầu.

Nguyên nhân sinh bệnh

Suy tuỷ xương bẩm sinh.

Bệnh ít gặp, đại diện cho nhóm này là:

Bệnh Fanconi, do Fanconi miêu tả năm 1927 từ 3 anh em trong 1 gia đình. Đây là bệnh di truyền lặn liên quan đến bất thường sắc tố da, ngưòi thấp, ngón cái bả’t thường, suy thận. Gần đây các tác giả đã phát hiện đột biến gen đặc hiệu trong thiếu máu Fanconi nằm trên NST sô’ 9.

Tê bào tuỷ và sô’ lượng hồng cầu bình thường cho đến 5 – 10 tuổi, sau đó tuỷ trỏ nên suy giảm.

Phần lốn bệnh nhân Fanconi không đáp ứng với ATG hay cyclosporin A, nhưng có đáp ứng tốt với androgen. Bệnh nhân tử vong ở tuổi 10 – 20 tuổi khi suy tuỷ ngày càng nặng hoặc 10 % chuyển thành lơ xê mi.

Hội chứng Black Fan Diamond thường gặp ở trẻ có rối loạn dinh dưỡng.

Suy tuỷ xương thứ phát

do thuốc:

Nhiều loại thuốc gây suy tuỷ xương nhưng nguyên nhân do dùng chloramphenicol là hay gặp nhất.

Chloramphenicol là một nitrobenzen nó được giới thiệu vào năm 1948 và được sử dụng rộng rãi trong những năm 50 và 60.

Nguy cơ bệnh suy tuỷ xương ở người được điều trị bằng chloramphenicol là 1/200000 dân cao hơn 10 – 50 lần ở người dân bình thường.

Thuốc phòng sốt rét: quinacrin (Atbrine) đã được dùng cho binh lính Mỹ ở chiến trường Nam Thái Bình Dương và châu Á từ năm 1943 – 1994 cho thấy tỷ lệ mắc bệnh của binh lính Mỹ ở vùng này là rất cao 7 – 28 người/1 triệu dân/năm.

Thuốc chống ung thư như cyclophosphamid, vincristin, 6MP, methotrexat v.v… đều gây giảm bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu, gây suy tuỷ.

Thuốc chống viêm non steroid cũng gây suy tuỷ xương đặc biệt là muối vàng.

Một sô thuốc chống lao.

Thuốc đái tháo đường.

Thuốc chống động kinh, co giật.

do hoá chất

Benzen là chất đầu tiên có liên quan đến bệnh suy tuỷ xương, mặc dù biết đây là chất độc nhưng benzen vẫn được sử dụng rộng rãi như là một dung môi. Đây là hoá chất không thể thiếu được trong sản xuất hàng da, cao su và được sử dụng rộng rãi trong ngành đóng giầy, dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh suy tuỷ xương của công nhân ngành công nghiệp này là rất cao ở Trung Quốc nơi mà benzen vẫn được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp. Tỷ lệ nhiễm độc benzen ở các công nhân là 0,5 %, tỷ lệ công nhân bị suy tuỷ xương cao hơn 6 lần so với dân số toàn quốc.

Thuốc trừ sâu DDT cũng có liên quan tới bệnh suy tuỷ xương.

TNT một loại chất nổ được sử dụng trong chiến tranh. Một số công nhân tải đạn trong chiến tranh thế giới thứ I và II cũng bị nhiễm qua da và đường hô hấp, đã chết vì bệnh suy tuỷ xương.

Thuốc bảo vệ gỗ ( Lindame) được hoà với PCP (pentachlorophenol) một chất hydrocarbon bị oxy hoá được sản xuất để bảo vệ gỗ: thuốc này cũng gây ra bệnh suy tuỷ xương.

Thạch tín vô cơ.

Chì.

phóng xạ

Nhiễm xạ liên tục với liều lượng lớn sẽ dẫn đến bệnh nhân bị suy tuỷ xương hoặc lơ xê mi.

Tổng số nhiễm vào cơ thể từ 100 – 250 rad (1 – 2,56 GY) sẽ dẫn đến hội chứng dạ dày ruột non nhưng phần lớn đều hồi phục. Với liều lượng 4,5 GY sẽ gây nên suy tuỷ xương.

do nhim trùng

Một số nhiễm trùng nặng hoặc nhiễm trùng huyết cũng có thể gây suy tuỷ xương cấp, bệnh nhân thường rất nặng có thể tử vong trong vài tuần đầu.

Lao, suy thận cũng gây nên suy tuỷ thứ phát.

do nhiễm virus

Một mối quan hệ nổi bật giữa bệnh viêm gan và sự phát triển tiếp theo của bệnh suy tuỷ xương đang là chủ đề của một số nghiên cứu. Trong nhiều trường hợp bệnh nhân bị viêm gan đã ổn định thì sau 4-12 tuần người ta phát hiện ra bệnh suy tuỷ xương. Khoảng 10% các ca suy tuỷ xương xảy ra sau 1 năm bị viêm gan. Trên thực nghiệm virus viêm gan có thể gây hoạt hoá các tế bào T độc để giải phóng các cytokin có tác dụng ức chê quá trình tạo máu ở tuỷ xương.

Virus Epstein – Barr đã bị coi là nguyên nhân gây bệnh suy tuỷ xương. Bệnh thường xuất hiện ngay sau 4 – 6 tuần bị nhiễm virus. Virus E-B được phát hiện trong tế bào tuỷ nhưng chưa biết chắc chắn có phải suy tuỷ là do ảnh hưởng trực tiếp hay chỉ là phản ứng miễn dịch của chủ. Một số bệnh nhân đã phục hồi sau khi điều trị với ATG (Anti thymocyte globumin).

B 19 parvovirus gây suy dòng hồng cầu, giảm hồng cầu lưới. Bệnh sinh của parvovirus B 19: Trong nhiễm virus các biểu hiện của bệnh phụ thuộc vào cân bằng giữa virus và tế bào đích ở tuỷ xương. Parvovirus B 19 xâm nhập vào tế bào hồng cầu và nhân lên trong tế bào gây phá vỡ hồng cầu. Điều trị bằng thuốc ức chê miễn dịch bệnh ổn định.

Bệnh nhân nhiễm HIV một số cũng thấy bị suy tuỷ xương, ở những bệnh nhân này tế bào tuỷ nghèo có thể là do sự ngăn chặn tạo máu của virus và do sử dụng nhiều loại thuốc để kiểm soát sự nhân đôi của virus.

các nguyên nhân khác

Do viêm khớp: bình thường bệnh nhân viêm khớp không liên quan đến suy tuỷ xương, một nghiên cứu gần đây ở Pháp cho thấy tỷ lệ mắc bệnh suy tuỷ xương ở bệnh nhân viêm khớp cao gấp 7 lần bình thường. Điều không chắc chắn là bệnh suy tuỷ xương có liên quan trực tiếp đến viêm khớp hay liên quan đến những thuốc sử dụng điều trị viêm khớp.

Suy tuỷ ở người có thai: Thường gặp ở phụ nữ đang mang thai tháng thứ 4 hoặc tháng sắp đẻ, cơ chế chưa rõ ràng, thường bệnh nhân lặp lại trong những lần mang thai sau.

Phá thai có thể cải thiện được chức năng sinh máu của tủy. Phương pháp điều trị bao gồm lựa chọn phá thai sớm, chăm sóc hỗ trợ, điều trị ức chế miễn dịch hoặc ghép tuỷ sau sinh.                .

Suy tuỷ ở người có tuyến ức to.

Suy tuỷ ở người có tuyến giáp to, sau khi cắt bướu tuyến giáp thì hết suy tuỷ. Bệnh thường gặp ở nữ giới tuổi trung niên.

Đái huyết sắc tố niệu ban đêm: do màng hồng cầu rất nhậy với bổ thể dễ gây nên tan huyết, bệnh xếp vào tan máu nhưng hiện nay người ta cũng tìm thấy tổn thương tế bào gốc và có biến chứng suy tuỷ xương

Cơ chế bệnh sinh

Cho đến nay, cơ chế bệnh sinh còn chưa rõ ràng, khó có thể xác định cơ chế sinh thiếu máu bất sản cho từng bệnh nhân. Tuy nhiên, bằng thực nghiệm người ta đã đưa ra một số giả thuyết như sau:

Bất thường về số lượng hoặc chất lượng tế bào gốc vạn năng.

Số lượng tế bào gốc rất hạn chê ( 9,8 X 106– 2,6 X 107 trên 1 người nặng 70kg).

Tổn thương tê’ bào gốc do virus độc tố, hoá chất hoặc các rối loạn di truyền có thể dẫn tới giảm số lượng tế bào gốc hoặc đột biến tạo các clon tế bào gốc kém phát triển.

Bất thường vi môi trường tạo máu và các yếu tố tăng trưởng

Các thực nghiệm trên động vật cho thấy vi môi trường tạo máu có vai trò quan trọng trong sinh máu. Các yếu tố tạo nên vi môi trường tạo máu ở tuỷ xương thường do các tế bào đệm giúp phát triển điều hoà sinh máu.

Tia phóng xạ có thể gây tổn thương các tế bào đệm, hậu quả sẽ dẫn đến giảm hoặc mất các yếu tố tăng trưởng..

Thiếu các chất kích thích sinh máu như IL3, GM – CFS, erythropoietin sẽ dẫn đến giảm số lượng tế bào máu.

Ức chế tạo máu do cơ chế miễn dịch.

Hiện nay nhiều tác giả quan tâm đến vấn đề này.

Năm 1970 Mathé.G là người đầu tiên đưa ra giả thuyết về miễn dịch trong suy tuỷ xương.

Trên môi trường nuôi cấy tế bào, các tác giả thấy quá trình tạo máu chỉ diễn ra khi tách cốc tế bào lympho ra khỏi môi trường nuôi cấy, nếu thêm huyết thanh kháng lympho vào thì quá trình tạo máu được cải thiện rõ ràng. Bằng thực nghiệm các tác giả đã chứng minh được tế bào lympho T độc có vai trò ức chế quá trình tạo máu ở bệnh nhân suy tuỷ xương. IFNγ và TCD8 hoạt hoá tăng ở bệnh nhân suy tuỷ xương. IFNγ do TCD8 hoạt hoá tiết ra cũng được coi là chất ức chế tế bào tạo cụm. IFNγ có thể tác động trực tiếp đến tế bào tạo máu hoặc thông qua hệ thống miễn dịch.

Chẩn đoán xác định

Triệu chứng lâm sàng

Giai đoạn khởi phát: bệnh nhân thường có biểu hiện mệt, hoa mắt chóng mặt. Da xanh, niêm mạc nhợt. Các biểu hiện thiếu máu diễn ra từ từ, bệnh nhân thường thích nghi với tình trạng thiếu máu.

Giai đoạn toàn phát

100% bệnh nhân có hội chứng thiếu máu:

Da xanh.

Niêm mạc nhợt.

Lòng bàn tay trắng bệch.

Móng tay nhợt có khía, dễ gãy.

Hồi hộp, đánh trống ngực, hoa mắt chóng mặt.

Nhịp tim nhanh, có tiếng thổi tám thu cơ năng.

Nếu tình trạng thiếu máu nặng bệnh nhân có thể ngã ngất xỉu khi gắng sức.

Hội chứng xuất huyết: 34,74% bệnh nhân đến viện có hội chứng xuất huyết. Đặc điểm xuất huyết giống như trong xuất huyết do giảm tiểu cầu nhưng không rầm rộ như trong xuất huyết giảm tiểu cầu. Tuỳ theo mức độ tiểu cầu giảm mà bệnh nhân có biểu hiện xuất huyết dưới da, niêm mạc, có thể xuất huyết đường tiêu hoá, xuất huyết não, màng não v.v… Đôi khi tiểu cầu giảm dưới 10 X 109/lít, bệnh nhân vẫn không có xuất huyết.

Hội chứng nhiễm khuẩn: 17,7% bệnh nhân đến viện có hội chứng nhiễm trùng: bệnh nhân thường sốt cao 39° – 40°c, thường gặp nhất là viêm lợi, viêm mũi họng, viêm phế quản, viêm da. Trong một số trường hợp có nhiễm trùng máu

Trong suy tuỷ xương gan không to, lách không to, hạch không to.

Xét nghiệm

công thúc máu

S lượng hồng cầu giảm, thường giảm nặng.

Dưới: 1 X 1012/ lít có 40% bệnh nhàn.

1-2x 10^12/ lít có 48,8% bệnh nhân.

2-3x 1012 / lít có 11% bệnh nhân.

S lượng bạch cầu giảm, đặc biệt công thức bạch cầu đảo ngược, bạch cầu đoạn trung tính giảm, tỷ lệ lymphocyt tăng.

Dưới 4 X 109/ lít có 78,89% bệnh nhân.

4-5x 109/ lít có 26,67% bệnh nhân.

Trên 5 X 109/lít có 4,44% bệnh nhân.

Số lượng tiểu cầu giảm nặng.

Dưới 80 X 109/lít có 75,55%.

80 – 150 x109/lít có 22,22%.

Trên 150 x109/lit có 4,44%.

Hồng cầu lưới ở máu ngoại vi giảm dưới 1 % có 91,15 % bệnh nhân.

Trên 1% có 8,85% bệnh nhân.

Nhận định công thức máu ngoại vi chúng ta thấy số lượng hồng cầu giảm nặng, số lượng bạch cầu giảm, đặc biệt là số lượng bạch cầu hạt trung tính giảm rất nặng. Số lượng tiểu cầu giảm nặng, có trường hợp tiểu cầu giảm dưới 10 X 109/lít. Tuy nhiên có một số bệnh nhân đến viện trong tình trạng chỉ giảm một dòng hồng cầu, dòng bạch cầu và tiểu cầu bình thường. Điểu đó nói lên suy tuỷ một dòng, hay suy tuỷ xương toàn bộ.

Xét nghiệm tủy đồ

Tuỷ nghèo tế bào, còn lại rất thưa thớt tế bào và chủ yếu là lymphocyt, rất ít các tế bào trung gian.

Số lượng tế bào tuỷ giảm, nhiều trường hợp giảm dưới 10 X 109/ lít.

Dưới 30 X 109/ lít có 96,55% bệnh nhân.

Hồng cầu lưới trong tuỷ giảm

Xét nghiệm sinh thiết tủy xương

Đây là xét nghiệm quyết định cho chẩn đoán.

Tuỷ mô hoá 85 – 90% số bệnh nhân.

Tuỷ xơ hoá 5% số bệnh nhân.

Tuỷ xơ phối hợp mỡ hoá 5 %

Chủ yếu là suy tuỷ xương mỡ hoá.

Định lượng sắt huyết thanh

Trong suy tuỷ xương tốc độ sắt 59 (Fe*+ 59) rời huyết tương chậm và hệ số sử dụng sắt của hồng cầu thấp.

Sắt huyết thanh tăng trong máu, có hai lý do:

Do không sử dụng sắt để tạo hồng cầu.

Do truyền máu nhiều lần

Tỷ lệ TCD4 / TCD8

Làm các chức nàng gan, thận v.v…

để tìm nguyên nhân có liên quan.

Chẩn đoán phân biệt

Thiếu máu do giun móc

Thường gặp ở phụ nữ làm ruộng hoặc trồng cây có sử dụng phân tươi.

Bệnh nhân có hội chứng thiếu máu, không có hội chứng chảy máu, không nhiễm trùng.

Xét nghiệm giảm một dòng hồng cầu, thiếu máu nhược sắc hồng cầu nhỏ. Bạch cầu và tiểu cầu bình thường.

Công thức bạch cầu bình thường.

Xét nghiệm phân có trứng giun móc trong phân.

Sắt huyết thanh giảm.

Cường lách trong hội chứng banti

Bệnh nhân có hội chứng thiếu máu.

Có lách to.

Có thể có cổ chướng, có tuần hoàn bàng hệ.

Xét nghiệm: giảm nhẹ 3 dòng máu ngoại vi.

Tuỷ đồ bình thường hoặc giảm sinh nhẹ.

Lơxêmi cấp thể giảm bạch cẩu

Bệnh thường diễn biến cấp tính trong một đến vài tuần.Có hội chứng thiếu máu, sốt, gầy sút nhanh, đau xương. Có thể có hạch to, gan lách to.

Xét nghiệm máu ngoại vi giảm cả 3 dòng, nhưng khi làm xét nghiệm tuỷ đồ tuỷ giàu tế bào, có tế bào non ác tính tăng ở trong tuỷ xương.

Xuất huyết giảm tiểu cẩu

Thường trên lâm sàng dễ nhầm với suy tuỷ xương khi bệnh nhân bị chảy máu nhiều nơi, mất nhiều máu.

Xét nghiệm máu ngoại vi giảm dòng hồng cầu và tiểu cầu.

Bạch cầu bình thường hoặc tăng, công thức bạch cầu bình thường.

Xét nghiệm tuỷ đồ: tuỷ tế bào, giàu mẫu tiểu cầu.

Chẩn đoán thể bệnh

Thể bệnh theo lâm sàng

Thể cấp tính: Bệnh diễn biến nhanh tiến triển nặng và có thể tử vong trong 1 vài tuần đến 2 tháng kể từ khi phát hiện bệnh.

Nguyên nhân tử vong do chảy máu não, màng não hoặc nhiễm trùng.

Thể mạn tính: Bệnh diễn biến từ từ kéo dài nhiều năm. Điều trị liên tục bệnh có thể kéo dài 5 -> 7 năm và có nhiều bệnh nhân phục hồi hoàn toàn.

Thể bệnh theo tế bào học

suy tuỷ xương toàn bộ:

Giảm cả 3 dòng máu ngoại vi.

Thể này chiếm 93,35%.

Suy tuỷ xương một dòng:

có tỷ lệ 2,22%.

Suy tuỷ xương hai dòng:

có tỷ lệ 4,44%.

Thể bệnh theo tổ chức học

Theo tổ chức học trong tuỷ xương chủ yếu là mỡ hoá.

Thực tế ở Viện Huyết học – Truyền máu gặp:

Tuỷ mỡ hoá chiếm 85 – 90%.

Tuỷ xơ hoá chiếm 5%.

Tuỷ xơ + mõ hoá chiếm 5 %.

Theo nguyên nhân

Do bẩm sinh

Do mắc phải

Có nguyên nhân chiếm 5 – 10 %

Không rõ nguyên nhân chiếm 90%

Tiên lượng bệnh

Trước năm 80 bệnh có tỷ lệ tử vong cao, tiên lượng nặng. Trong nhiều năm gần đây việc điều trị suy tuỷ xương có nhiều tiến bộ và nhiều bệnh nhân đã được kéo dài cuộc sông trên 5 năm và có một số bệnh nhân phục hồi hoàn toàn.

Bệnh nhân thường diễn biến nặng, có nguy cơ tử vong vì chảy máu não, màng não hoặc nhiễm trùng khi:

Hồng cầu dưới 1 X 1012 / lít.

Bạch cầu dưới 1 X 109 / lít.

Tiểu cầu dưới 10 X 109 / lít.

Tê bào tủy dưới 10 X 109 / lít.

Điểu trị

Suy tuỷ xương là một bệnh cơ chế bệnh sinh chưa rõ ràng, do vậy còn có nhiều phương pháp điều trị khác nhau. Ngày nay, bằng nhiều hiểu biết mới về suy tuỷ xương người ta điều trị đạt kết quả tốt ở một số bệnh nhân.

Điều trị bằng ức chế miễn dịch

Cố điển dùng corticoid

Liều dùng 1 mg -1,5mg / kg trọng lượng cơ thể.

Prednisolon 5mg X 8 – 12 viên / ngày. Điều trị tấn công liên tục 3- 4 tuần sau đó giảm liều. Liều duy trì 0,5 -1 mg / kg, duy trì từ 3 -6 tháng.

Tác dụng phụ của prednisolon: gây xuất huyết đường tiêu hoá, giữ nước, hạ K* huyết, đái tháo đường, loãng xương.

Nếu bệnh nhân không uống được phải dùng bằng đường tiêm.

Depersolon, 30mg X 2 -4 ống / ngày. Tiêm tĩnh mạch.

Hoặc methylprednisolon (Solumedrol) 40mg X 2 – 4 ống/ngày. Tiêm hoặc truyền tĩnh mạch.

Atg ( anti thymocyte globulin), hoặc alg (anti lymphocyte globulin)

ATG và ALG có tác dụng ức chế tế bào lympho T độc.

Liều lượng: 15 – 40 mg/kg/ngày, truyền tĩnh mạch, điều trị từ 4 – 10 ngày. Tỷ lệ đáp ứng là 50%, khi dùng ATG hoặc ALG cần điều trị phối hợp với prednisolon với liều 40 – 60 mg/ngày, kéo dài 2 tuần để tránh sốc.

Tác dụng phụ của ATG hoặc ALG: hay gây phản ứng như sốt, mẩn mày đay, ngứa, ban đỏ, đau khớp, sốc phản vệ. Hồng cầu bị phá huỷ tăng nhanh trong điều trị với ATG vì vậy phải tăng cường truyền máu trong 10 ngày.

Cyclosporin a (neoral) 100mg

Bản chất là: Lipophilic cyclic polypeptid, lấy từ một loại nấm và được phát hiện từ năm 1972.

Tác dụng: Cyclosporin A có tác dụng chọn lọc lên tế bào T bằng cách ngăn chặn sự trưởng thành và làm giảm các cytokin trong tuyến ức và trong máu.

Liều lượng: 3 – 7 mg/kg/ngày. Liều trung bình 4mg/kg/ngày điều trị kéo dài 6 – 8 tháng.

Tác dụng phụ ít hơn so với ATG: làm men gan tăng, bilirubin tăng do đó cần có sự kiểm tra và theo dõi chức năng gan.

Theo một số nghiên cứu cho thấy, điều trị cyclosporin A + prednisolon liều thấp có hiệu quá giống như điều trị ATU + predmsolon liêu cao, tỷ lệ đạt hiệu quả tốt là 50 – 65%, có hiệu quả hơn (70-80% lui bệnh) nếu dùng ATG + Cyclosporin + Prednisolon.

Cyclophosphamid thuộc nhóm alkyl hoá

Chủ yếu tác dụng lên lympho B hơn lympho T. Có tác dụng ức chế miễn dịch, chống thải ghép do đó chỉ dùng trong chuẩn bị ghép tuỷ.

Tác dụng phụ: gây rụng tóc, buồn nôn giảm bạch cầu, độc cho tuỷ. Vì vậy ít được dùng cho điều trị suy tuỷ xương.

Ghép tuỷ xương

Điều kiện để ghép tuỷ xương: phải có người cho phù hợp với người nhận về hệ thống HLA.

Trước tiên, cần phải điều trị cyclophosphamid 50mg/kg/ngày X 4 ngày, kèm theo tia xạ toàn thân. Sau đó tiến hành ghép tuỷ.

Ngày nay bằng kỹ thuật gạn tách tế bào (cytophenesis), người ta loại trừ được tế bào lympho trong dịch ghép, hạn chế được biến chứng ghép chống chủ.

Phương pháp ghép tế bào gốc máu cuống rốn. Thuận lợi cơ bản là tỷ lệ tế bào gốc máu cuống rốn cao (0,5 ->1% tế bào có nhân), tế bào lympho máu cuống rốn là loại non chưa thành thục vê miễn dịch nên hạn chê được nguy cơ thải ghép. Tuy nhiên số lượng ít chỉ đủ ghép cho bệnh nhi.

Cắt lách

Lách là cơ quan lympho lớn, nặng khoảng 75 – 150 mg.

Ở người trưởng thành, lách có chức năng sinh kháng thể tham gia đáp ứng miễn dịch. Ngoài ra, lách còn là nơi tiêu huỷ những tế bào hồng cầu, tiểu cầu già cỗi, mất chức năng.

Ở bệnh nhân suy tuỷ, lách có khả năng sinh kháng thể hoạt hoá T độc, ức chế khả năng sinh máu ở tuỷ xương, cắt lách cho bệnh nhân suy tuỷ xương chưa rõ nguyên nhân sẽ có tác dụng kéo dài đời sống hồng cầu, làm tăng số lượng tiểu cầu vì không còn nơi tiêu huỷ. Ngoài ra, còn có tác dụng làm giảm lượng kháng thể hoạt hoá T độc, do vậy tuỷ được giải phóng, khả năng sinh máu ở tuỷ được phục hồi.

Tiêu chuẩn cắt lách cho bệnh nhân suy tuỷ xương:

Bệnh nhân được chẩn đoán xác định suy tuỷ xương chưa rõ nguyên nhân.

Tỷ lệ TCD4/TCD8

Điều trị > 6 tháng không có hiệu quả.

Không mắc các bệnh mạn tính cản trở cho phẫu thuật.

Tuổi

Kết quả ổn định được khoảng 50% các trường hợp.

Điều trị kích thích sinh máu

Androgen với các biệt dược

Androgen có tốc dụng kích thích sinh erythropoietin.

Testosteron 25mg X 2 ống / ngày. Tiêm bắp sâu. Dùng kéo dài 3-6 tháng.

Andrion viên: 40mg X 2 viên / ngày. Tác dụng phụ như mọc râu ở nữ, mọc trứng cá, giữ nước v.v…

erythropoietin       .

Có tác dụng tăng sinh hồng cầu. Liều lượng: 50UI / kg. Tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch.

gm – csf ( yếu t tăng trưởng dòng bạch cầu )

Neupogen hoặc Leucomax.

Truyền tình mạch hoặc tiêm dưới da. Có tác dụng tăng bạch cầu hạt. Liều lượng: 250 – 300 μg / ngày.

Điểu trị hỗ trợ

Truyền khối hồng cầu khi huyết sắc tố dưới 80 g/1.

Truyền khối tiểu cầu khi có chảy máu hoặc khi tiểu cầu dưới 10G/1 Cần hạn chế truyền tiểu cầu vì dễ gây ra kháng thể kháng tiểu cầu.

Truyền khối bạch cẩu khi có nhiễm trùng và số lượng bạch cầu hạt trung tính dưới 0,5 G/l. Không truyền dự phòng khi chưa có nhiễm trùng.