Nội dung

Giao tiếp

Đặt vấn đề.

Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí giữa hai hay nhiều người.

Trong xã hội, con người phải sử dụng giao tiếp để:

Thống nhất hoạt động cùng nhau.

Để trao đổi thông tin.

Để tác động nhằm làm thay đổi đối  tượng,  ví  dụ  như cha mẹ yêu cầu con  phải rửa tay trước khi ăn.

Như vậy ta có thể thấy nhờ có giao tiếp, con người có thể liên kết với nhau,  cùng nhau thực hiện một hoạt động chung  nào  đó.  Cũng  nhờ  có  giao  tiếp,  các mối quan hệ xã hội của mỗi cá nhân được  hình thành và  vận  hành.  Nhân cách của con người cũng được hình thành và phát triển nhờ có giao tiếp.

Các thành phần của giao tiếp.

Trao đổi thông tin:

Một trong những thành phần  quan  trọng  của  quá  trình giao  tiếp đó là trao đổi thông tin. Thông tin mà con người trao đổi với nhau  không chỉ  là những kiến thức được thể hiện trong các khái niệm, ngôn từ mà nó còn bao  gồm cả những ý  nghĩ, cảm xúc, hứng thú, thái độ…

Giao  tiếp của con người  được  nhiều tác  giả xem xét, phân tích dưới góc độ  lí thuyết thông tin. Tuy nhiên qua trình trao đổi thông tin của con người  có những đặc điểm riêng:

Thông tin mang tính  đa dạng,  nhiều  chiều,  thậm  chí  có  những điểm không rõ ràng (độ bất định khác nhau).

Thông tin được phát triển, điều chỉnh ngay trong quá trình trao đổi.

Thông tin được truyền vừa theo theo cách tổng thể,  vừa  theo  công đoạn, có thể trên một hoặc nhiều kênh khác nhau,  ví  dụ:  vừa  trên kênh  ngôn  ngữ  lại  vừa trên kênh phi ngôn ngữ.

Hiểu biết lẫn nhau:

Giao tiếp của con người là quá trình trao đổi thông tin giữa hai  (hoặc  nhiều  hơn) chủ thể chứ không phải  là  hai  thiết  bị  khác nhau.  Trong  giao  tiếp  và  qua giao tiếp, bên cạnh việc trao đổi thông tin, mỗi chủ thể  dần  nhận  biết, hiểu được  đối tác của mình, bắt đầu từ những đặc điểm  bên  ngoài  và  sau đó là những đặc điểm bên trong. Từ những hiểu biết đó, ở chủ thể giao  tiếp hình thành những cảm  xúc đối với đối tác. Những  cảm  xúc  này  có  thể  bắt  đầu từ  những  rung động và sau đó có thể hình thành những  tình cảm  bền vững  hơn.  Những  hiểu biết,  cảm  xúc, tình cảm chính là cơ sở, tiền đề cho sự hình thành, phát  triển thái độ của chủ  thể đối với đối tác giao tiếp.

Như vậy có thể  nhận  thấy con người  càng mở  rộng phạm  vi  giao tiếp thì càng có cơ hội tăng cường những hiểu biết của mình  về  người  khác,  làm  phong  phú thêm các mối quan hệ xã hội của mình.

Tác động qua lại:

Một khía cạnh khác của giao tiếp chính  là  mặt  hành  động.  Người  ta  có  thể đưa ra yêu cầu, mệnh lệnh, đề  nghị  đối tác  làm hoặc  không làm một việc  gì  đó. Sự thay đổi hành động còn  có  thể  diễn ra theo  cách gián tiếp:  tự thấy mình cần phải thay đổi hoặc sự thay đổi diễn ra một  cách tự  nhiên mà chủ thể  không nhận biết được.

Kết quả của sự tác động qua  lại  không chỉ  thể  hiện ở  những  hành  động, hành vi bên ngoài mà còn cả những thay  đổi  bên trong:  thay đổi về  cách nghĩ, thay đổi  về tình cảm, thay đổi về thái độ.

Trong từng hoạt động giao tiếp cụ thể, tùy theo  mục  đích,  động cơ  của mình mà chủ thể chú trọng đến mặt nào đó của giao tiếp. Ví dụ:  do  chưa quen biết,  lúc đầu chỉ là những câu thăm dò nhằm  xác  định  xem  người  đang  nói  chuyện  với mình là người như thế nào. Trong khi đó, những lời  khuyên,  yêu cầu,  mệnh lệnh điều trị của bác sĩ là nhằm thay đổi hành vi, nhận thức của bệnh nhân.

Các yếu tố ảnh hưởng đến giao tiếp.

Các yếu tố môi trường bên ngoài:

Các yếu tố môi trường tự nhiên như: nhiệt độ, độ ẩm,  ánh  sáng,  tiếng  ồn…ảnh hưởng nhất định đến quá trình giao tiếp. Tiếng  ồn lớn làm  cho  người  ta khó nghe và phải nói to, thậm chí như quát, như hét vào tai nhau. Ánh sáng quá yếu khiến người ta không nhìn rõ nét mặt  của nhau,  không tiếp nhận  được  những dấu hiệu cảm xúc của nhau…

Các yếu tố môi trường xã hội: tình hình chính trị, kinh tế, xã hội… cũng ảnh hưởng đáng kể đến giao tiếp. Trong bầu không khí  chính trị  căng thẳng,  người  ta tiếp xúc với nhau cũng dè dặt. Sau chiến thắng  vang  dội  của đội  tuyển  bóng  đá nước nhà, trong mỗi câu chuyện cũng đều có sắc thái của niềm vui chiến thắng.

Các yếu tố bên trong:

Có thể chia các yếu tố bên trong có thể ảnh hưởng đến giao  tiếp thành 2 loại:  các yếu tố thuộc về đặc điểm xã hội và các yếu tố  thuộc  về  đặc  điểm tâm lí cá  nhân của chủ thể giao tiếp.

Các yếu tố thuộc về đặc điểm xã hội của cá nhân bao gồm:

Tầng lớp, vị thế xã hội.

Xu hướng, quan điểm chính trị .

Tôn giáo.

Nghề nghiệp, trình độ học vấn của cá nhân.

Các yếu tố tâm lí của cá nhân bao gồm:

Các đặc điểm kiểu nhân cách: người  hướng  nội  hay  hướng  ngoại,  người điềm đạm hay sôi nổi hoặc nóng tính… rụt  rè  do  gặp  nhiều  thất  bại  hoặc  hay khoe khoang, khoác lác…

Các đặc điểm tâm lí khác như: đặc điểm tư duy (sâu sắc hay hời hợt) trí nhớ (nhớ lâu, chính xác…) cũng đều ảnh hưởng đến giao tiếp.

Các phương tiện giao tiếp.

Để thực hiện được giao tiếp, con người  phải  sử  dụng  các  loại  phương  tiện khác nhau. Những phương tiện này có thể  được  chia  thành  2  nhóm  chính:  ngôn ngữ và các phương tiện phi ngôn ngữ.

Ngôn ngữ:

Ngôn ngữ là phương tiện chủ đạo được  con  người   dùng  trong  giao  tiếp.  Trong quá trình sử dụng ngôn ngữ  để  giao  tiếp,  con người  dùng  hệ  thống nghĩa của từ ngữ để trao đổi thông  tin, kiến thức. Thường có ba loại nghĩa của từ: nghĩa đen, nghĩa rộng và nghĩa bóng. Bên cạnh nghĩa của từ, con người còn sử dụng hệ thống hàm ý (ngụ ý) của ngôn ngữ để  giao  tiếp. Hệ  thống này  thường được  dùng  để thông báo về thái độ của chủ thể cho đối tượng giao tiếp.

Ngoài hệ thống ngữ, nghĩa, con người còn sử dụng những tính chất  khác  của ngôn ngữ nói để giao tiếp: cường độ ngữ  âm  (nói  to  hay nói  nhỏ), vận  tốc ngôn ngữ (nói nhanh hay chậm), và tần số âm thanh. Những tính chất  này thường được  dùng để chuyển tải sắc thái cảm xúc, thái độ chủ quan…

Các phương tiện phi ngôn ngữ:

Phương tiện vật chất:

Phương tiện vật chất được  dùng  trong  giao   tiếp  hàng  ngày  thường  là  dạng quà cáp, tặng phẩm… Những phương  tiện  này  thường  được  sử  dụng  với  những hàm ý khác nhau. Trong cuộc sống xã hội, con người cũng còn sử  dụng  những phương tiện vật chất khác để giao tiếp như: các sản phẩm  vật  chất  của lao  động, công cụ lao động, các danh lam…

Phương tiện kí hiệu, tín hiệu:

Nét mặt:

Con người sử dụng bộ mặt  của mình  để  diễn đạt nội dung giao  tiếp, trước hết  là diễn đạt về cảm xúc, thái độ. Nét mặt cau có thể hiện sự giận dữ, khó  chịu; nét  mặt rạng rỡ thể hiện sự hài lòng hoặc sung sướng…

Giao tiếp bằng nét mặt thường được tập trung ở đôi mắt  và  miệng. Ánh  mắt ‘nói” lên rất nhiều sắc thái tâm lí: vui, buồn,  ngờ  vực  hay  kiên  quyết,  tự  tin. Giọng cười, cách cười  trong giao  tiếp cũng phần nào  thể hiện được trạng thái  tâm  lí và tính cách của chủ thể giao tiếp.

Cử chỉ:

Mỗi cử chỉ bàn tay:  nắm  chặt hay xoè rộng, nhẹ  nhàng hay thô bạo… cũng đều  có thể được sử dụng làm phương tiện giao tiếp. Đó là chưa kể đến các  cử chỉ  chuyên biệt được dùng trong các cơ sở  giao  dịch  dạng  như  thị  trường  chứng khoán hay hệ thống chữ bằng  cử  chỉ  dành  cho  người  khiếm thính.  Bên cạnh các cử chỉ của tay, những cái gật  đầu nhẹ  nhàng  hay  lia lịa,  tay chống cằm hoặc  để gọn gàng trên bàn… cũng là những  dấu  hiệu  được  sử dụng làm phương tiện giao tiếp.

Tư thế của thân thể:

Tư thế đứng, cách ngồi, cách đi lại  trong giao  tiếp ít  nhiều liên quan  đến vai trò, địa vị của cá nhân.

Trong thực tế cuộc sống, con người sử dụng đồng thời nhiều loại phương tiện khác nhau trong giao tiếp: vừa sử dụng ngôn ngữ lại  dùng  cả điệu bộ, nét  mặt… Chính điều này nói lên tính phức tạp của giao tiếp.

Các loại giao tiếp.

Giao tiếp là một hiện tượng tâm lí phức tạp. Người ta có thể có các  cách phân loại khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại thường gặp.

Phân loại theo phương thức giao tiếp:

Giao  tiếp trực tiếp:

Trong dạng giao tiếp này, các đối  tượng giao  tiếp trực  tiếp trao  đổi thông tin với nhau. Khoảng cách giữa các  đối  tượng giao  tiếp rất gần nhau. Ví  dụ:  sự tiếp xúc của nhân viên y tế với người bệnh.

Đây là dạng giao tiếp thông dụng nhất. Nó rất linh  hoạt  và  mềm  dẻo.  Cũng chính trong dạng giao tiếp này, con  người  có  thể  vừa  sử dụng  ngôn ngữ  nói, lại vừa có thể dùng các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt  kèm  theo  để  thể  hiện hoặc  nhấn  mạnh thái độ của mình.

Giao tiếp gián tiếp:

Khi các đối tượng giao tiếp không thể trực tiếp gặp gỡ, trao đổi thông tin với nhau, họ thường sử dụng giao  tiếp gián tiếp.  Những  phương  tiện  thường  được dùng trong trường hợp này thường  là ngôn ngữ  viết.  Ngoài  ra,  người  ta còn có  thể sử dụng các phương tiện khác như gửi quà, nhờ người khác truyền đạt lại.

Giao tiếp trung gian:

Đây là loại giao tiếp không hoàn toàn trực tiếp lại  cũng không hoàn toàn gián tiếp, ví dụ như trao đổi qua điện thoại.

Phân loại theo quy cách và nội dung:

Giao tiếp chính thức:

Đây là giao tiếp giữa các thành viên trong nhóm chính thức. Sự giao tiếp này  được thực hiện theo chức trách, nhiệm vụ, quy chế.  Ví  dụ:  giao  tiếp  giữa  thày thuốc và người bệnh hoặc người nhà bệnh nhân.

Giao  tiếp không  chính thức:

Đây là giao tiếp trong nhóm không chính thức,  không  tuân  thủ  theo  một  sự quy định chính thức nào. Ví dụ: giao tiếp của bệnh nhân với nhau.