Nội dung

Những nội dung cơ bản của luật bảo hiểm y tế và các văn bản hướng dẫn

Nội dung

Chính sách tài chính y tế là một trong những chính sách quan trọng nhất, tạo nguồn tài chính hỗ trợ cho hoạt động y tế, thực hiện mục tiêu công bằng và hiệu quả trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Có 4 nguồn tài chính y tế chủ yếu:

Thuế: Thuế trực tiếp theo thu nhập và thuế gián tiếp theo mức tiêu thụ là nguồn cung cấp tài chính quan trọng cho y tế ở nhiều quốc gia, có thể đáp ứng các tiêu chí về một hệ thống tài chính theo định hướng công bằng. Quỹ được huy động thông qua thuế có thể thu theo khả năng trả và nguồn thu được phân bổ theo nhu cầu, như vậy, không có ràng buộc giữa mức đóng góp cá nhân và khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế

Tỷ lệ ngân sách thu từ thuế chi cho y tế là một trong những yếu tố quyết định trong việc nâng cao tính công bằng trong cung cấp tài chính và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cũng như phát triển hệ thống bảo hiểm y tế (BHYT) dựa vào cộng đồng ở các nước, các vùng có thu nhập thấp

Bảo hiểm y tế xã hội: Mọi người đều đóng BHYT xã hội dựa trên thu nhập, không kể người đó có sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ hay không.   Chính phủ hỗ trợ một phần chi phí từ ngân sách, nhưng số tiền chủ yếu là từ nguồn đóng góp của người tham gia theo hình thức thuế thu nhập, chính phủ điều tiết hệ thống này bằng pháp luật. Hệ thống y tế này phát triển dựa trên quan niệm về chi trả trước và chia sẻ nguy cơ. 

Chi trả trực tiếp: Bao gồm các chi trả mà người sử dụng phải lấy tiền túi của mình để mua dịch vụ y tế. Người sử dụng có thể phải chi trả toàn bộ chi phí khám chữa bệnh hay đồng chi trả với BHYT. Việc huy động tài chính từ chi trả trực tiếp hay viện phí trực tiếp có thể làm giảm khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế về mặt kinh tế và gây ảnh hưởng tiêu cực về mặt xã hội là làm tăng sự nghèo đói của người bệnh.

Bảo hiểm y tế tư nhân: Người sử dụng dịch vụ y tế mua BHYT tư nhân theo mệnh giá nhất định được quyết định tuỳ theo nguy cơ mắc bệnh của người mua bảo hiểm. Với mệnh giá này, họ sẽ được cung cấp gói dịch vụ như đã thoả thuận với công ty BHYT tư nhân. 

Hệ thống bảo hiểm y tế tại việt nam, qúa trình hình thành và phát triển bhyt ở việt nam  

Ngày 15/8/1992 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành

Nghị định 299/HĐBT kèm theo Điều lệ Bảo hiểm y tế, đánh dấu sự ra đời chính thức của chính sách BHYT ở nước ta, cho đến nay, chính sách BHYT đã qua 4 lần sửa đổi, bổ sung chính sách, đó là:

Giai đoạn từ 1992 – 8/1998: giai đoạn hình thành chính sách, xây dựng bộ máy tổ chức thực hiện chính sách

Chính sách BHYT trong giai đoạn này thực hiện theo Điều lệ BHYT ban hành kèm theo Nghị định số 299/HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng và được bổ sung bằng Nghị định 47/CP ban hành ngày 6/6/1994.

Đối tượng tham gia BHYT bắt buộc bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ hưu trí, mất sức lao động ở các khu vực hành chính sự nghiệp, người lao động khu vực sản xuất kinh doanh của Nhà nước và tư nhân nếu có từ 10 lao động trở lên. Các đối tượng khác tham gia BHYT theo khả năng và nhu cầu, trên cơ sở tự nguyện. 

Phạm vi quyền lợi được đảm bảo cơ bản trong khám chữa bệnh, cả nội trú và ngoại trú và không thực hiện cùng chi trả.

Mức đóng với đối tượng tham gia bắt buộc được quy định là 3% mức lượng và phụ cấp theo lương, trong đó người lao động đóng 1% và chủ sử dụng lao động đóng 2%. 

Thanh toán chi phí khám chữa bệnh của người tham gia BHYT theo phí dịch vụ và theo ngày điều trị bình quân. 

Về tổ chức bộ máy BHYT: trong giai đoạn này, hệ thống BHYT trực thuộc Bộ Y tế và được tổ chức theo quy định của Thông tư 11/BYT-TT ngày 17/9/1992 của Bộ Y tế, bao gồm cơ quan BHYT Việt Nam trực thuộc Bộ Y tế và BHYT tỉnh, thành phố là một bộ phận trực thuộc Sở Y tế. Quỹ BHYT được quản lý theo từng tỉnh, hạch toán độc lập, không có sự bù đắp, điều tiết, hỗ trợ lẫn nhau (theo mô hình đa quỹ). Cơ quan BHYT Việt Nam ở Trung ương trực thuộc Bộ Y tế có trách nhiệm quản lý, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ với BHYT các tỉnh và ngành dưới sự giám sát của Hội đồng quản trị BHYT Việt Nam. Bảo hiểm y tế tỉnh, thành phố và ngành chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị BHYT địa phương hoặc của ngành.  

Mô hình tổ chức bộ máy BHYT trong giai đoạn này đã bước đầu đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, phù hợp với đặc điểm, tình hình kinh tế xã hội ở mỗi địa phương và mỗi ngành, phù hợp với sự phân cấp quản lý hành chính và phát huy được tính chủ động, sáng tạo, gắn với trách nhiệm của lãnh đạo các địa phương và ngành cũng như các đoàn thể liên quan ở địa phương. 

Giai đoạn từ tháng 8/1998 – 6/2005: giai đoạn mở rộng đối tượng, củng cố bộ máy tổ chức.

Để giải quyết những bất cập trong quá trình thực hiện Nghị định 299, ngày 13/8/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định 58/1998/NĐ-CP nhằm mở rộng chính sách BHYT, đa dạng hoá các loại hình bảo hiểm để mở rộng đối tượng tham gia; xác định rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên liên quan đến tổ chức thực hiện BHYT; đảm bảo cân đối quỹ; đảm bảo thống nhất quyền lợi giữa các địa phương, các đối tượng; thống nhất quản lý để việc triển khai được đồng bộ: 

Bộ máy thực hiện bảo hiểm y tế được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương và trực thuộc Bộ Y tế.

Quỹ bảo hiểm y tế được quản lý tập trung, thống nhất trên phạm vi cả nước và được hạch toán độc lập với ngân sách Nhà nước.

Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc, mở rộng quyền lợi, được thanh toán một phần chi phí đối với các trường hợp khám chữa bệnh theo yêu cầu hoặc tự chọn thầy thuốc.

Bảo hiểm y tế tự nguyện đã có khung pháp lý cụ thể hơn, Quỹ KCB được phân bổ để chi cho chăm sóc sức khỏe ban đầu; đảm bảo thanh toán cho KCB ngoại trú và chi trả theo dịch vụ đối với nội trú.

Quỹ quản lý được trích trên tỷ lệ thu (8,5%) để chi cho con người, cơ sở vật chất và các hoạt động quản lý hành chính khác của hệ thống BHYT.

Áp dụng quy định “cùng chi trả” 20% chi phí KCB đối với một số đối tượng (trừ học sinh, cán bộ hưu, người nghèo, người có công với Cách mạng) như một biện pháp kiểm soát, chống lạm dụng quỹ BHYT.

Trong giai đoạn này có sự thay đổi về tổ chức hệ thống: từ 1/1/2003 hệ thống BHYT Việt Nam được chuyển giao từ Bộ Y tế sang BHXH Việt Nam theo Quyết định 20/QĐ-TTg ngày 20/1/2002 của Thủ tướng Chính phủ và được tổ chức hoạt động theo quy định tại Nghị định 100/2002/NĐ- CP ngày 6/12/2002 của Chính phủ. Với sự sáp nhập này, quỹ BHYT trở thành một quỹ thành phần của quỹ BHXH, được quản lý tập trung, thống nhất và thực hiện điều tiết chung theo Quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam. 

Giai đoạn từ tháng 7/2005 – 1/7/2009: giai đoạn mở rộng bhyt cho các đối tượng xã hội với sự hỗ trợ của nhà nước

Sau 7 năm thực hiện, Nghị định 58/1998/NĐ-CP đã mang lại những kết quả đáng khích lệ trên nhiều mặt: đối tượng tham gia ngày càng tăng, đến cuối năm 2004 đã bao phủ khoảng 23% dân số; số thu từ BHYT chiếm khoảng 2832% tổng chi ngân sách Nhà nước cấp cho cơ sở KCB, vừa đảm bảo nguồn thu ổn định cho hoạt động cơ sở KCB vừa đảm bảo tính công bằng trong khám chữa bệnh thông qua cơ chế bảo hiểm trên phạm vi cả nước. 

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, cùng với sự phát triển về kinh tế- xã hội và một số chính sách mới ban hành liên quan đến hệ thống y tế, cơ sở khám chữa bệnh, Nghị định 58 cũng đã bộc lộ một số bất cập, cần phải điều chỉnh. Ngày 16/5/2005, Chính phủ ban hành Nghị định 63/2005/NĐ-CP kèm theo điều lệ BHYT sửa đổi. Liên Bộ Y tế -Tài chính ban hành Thông tư 21 và 22/2005/TTLT-BYT-BTC hướng dẫn thực hiện BHYT. Nội dung sửa đổi của Nghị định và các Thông tư hướng dẫn thực hiện có các điểm sửa đổi và bổ sung như sau:

Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc được mở rộng đến tất cả đối tượng có quan hệ lao động có hợp đồng từ đủ 3 tháng trở lên, đặc biệt là với các đối tượng chính sách xã hội và người nghèo với sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước.

Mở rộng đối tượng tham gia BHYT tự nguyện: bên cạnh BHYT học sinh, BHYT tự nguyện còn triển khai dưới hình thức BHYT theo hộ gia đình, hội viên hội đoàn thể.

Mở rộng quyền lợi thanh toán cho một số dịch vụ như xét nghiệm chẩn đoán sàng lọc HIV; chi phí vận chuyển cho một số nhóm đối tượng; …

Mở rộng cơ sở KCB BHYT, thay đổi cơ chế cùng chi trả; ngoài cơ chế thanh toán theo phí dịch vụ, bổ sung các phương thức thanh toán định suất và thanh toán theo chẩn đoán.

Toàn bộ phí BHYT được sử dụng để thanh toán chi phí KCB, không trích chi cho bộ máy; quỹ khám chữa bệnh được điều hoà chung trong phạm vi cả nước.

Bộ Y tế và UBND các tỉnh, thành phố thực hiện chức năng quản lý

Nhà nước về Bảo hiểm y tế; cơ quan thực hiện chính sách bảo hiểm y tế là Bảo hiểm xã hội Việt Nam. 

Giai đoạn từ tháng 1/7/2009 đến nay: giai đoạn thực hiện luật bhyt với mục tiêu bhyt toàn dân.  

Luật BHYT được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2008 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/2009, đây là giai đoạn đánh dấu một bước trong hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm y tế, là cơ sở pháp lý cao nhất thể chế hoá quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện chính sách tài chính y tế thông qua BHYT, với mục tiêu BHYT toàn dân, xây dựng nền y tế Việt Nam theo định hướng công bằng, hiệu quả và phát triển. 

Những nội dung chính của luật bảo hiểm y tế

Luật bảo hiểm y tế và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật bao gồm một số nội dung quan trọng, thay đổi so với quy định hiện hành. Luật BHYT quy định về chế độ, chính sách BHYT, áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam có liên quan đến BHYT. Luật này không áp dụng đối với BHYT mang tính kinh doanh. 

Những quy định chung

Một số khái niệm

Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của Luật. BHYT toàn dân là các đối tượng quy định trong Luật này đều tham gia BHYT.

Quỹ BHYT là quỹ tài chính được hình thành từ nguồn đóng BHYT và các nguồn thu hợp pháp khác, được sử dụng để chi trả chi phí KCB cho người tham gia BHYT, chi phí quản lý bộ máy của tổ chức BHYT và những khoản chi phí hợp pháp khác liên quan đến BHYT.

Cơ sở KCB BHYT ban đầu là cơ sở KCB đầu tiên theo đăng ký của người tham gia BHYT và được ghi trong thẻ BHYT.

Giám định BHYT là hoạt động chuyên môn do tổ chức BHYT tiến hành nhằm đánh giá sự hợp lý của việc cung cấp dịch vụ y tế cho người tham gia BHYT, làm cơ sở để thanh toán chi phí KCB BHYT.

Nguyên tắc xây dựng Luật BHYT 

Bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHYT.

Mức đóng BHYT được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương tối thiểu của khu vực hành chính (sau đây gọi chung là mức lương tối thiểu).

Mức hưởng BHYT theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong phạm vi quyền lợi của người tham gia BHYT.

Chi phí KCB BHYT do quỹ BHYT và người tham gia BHYT cùng chi trả.

Quỹ BHYT được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch, bảo đảm cân đối thu, chi và được Nhà nước bảo hộ.

Trách nhiệm quản lý Nhà nước về BHYT

Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về BHYT. Bộ Y tế có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện nhiệm vụ sau:

Xây dựng chính sách, pháp luật về BHYT, tổ chức hệ thống y tế, tuyến chuyên môn kỹ thuật y tế, nguồn tài chính phục vụ công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân dựa trên BHYT toàn dân;

Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển BHYT; – Ban hành danh mục thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật thuộc phạm vi được hưởng của người tham gia BHYT và các quy định chuyên môn kỹ thuật liên quan đến KCB BHYT;

Xây dựng và trình Chính phủ các giải pháp nhằm bảo đảm cân đối quỹ BHYT; 

Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHYT;

Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức triển khai thực hiện chế độ BHYT;

Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về

BHYT;

Theo dõi, đánh giá, tổng kết các hoạt động trong lĩnh vực BHYT; – Tổ chức nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế về BHYT.

Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về BHYT tại địa phương, cụ thể: 

Chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về BHYT;

Bảo đảm kinh phí đóng BHYT cho các đối tượng được ngân sách Nhà nước đóng hoặc hỗ trợ theo quy định của Luật này;

Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHYT;

Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về BHYT.

Các hành vi bị nghiêm cấm trong thực hiện BHYT

Không đóng hoặc đóng BHYT không đầy đủ theo quy định của Luật. – Gian lận, giả mạo hồ sơ, thẻ BHYT

Sử dụng tiền đóng BHYT, quỹ BHYT sai mục đích.

Cản trở, gây khó khăn hoặc làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia BHYT và của các bên liên quan đến BHYT.

Cố ý báo cáo sai sự thật, cung cấp sai lệch thông tin, số liệu về BHYT.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, chuyên môn, nghiệp vụ để làm trái với quy định của pháp luật về BHYT.

Đối tượng, mức đóng bhyt

Đối tượng tham gia BHYT

Luật BHYT quy định có 25 nhóm đối tượng có trách nhiệm tham gia BHYT, bao gồm:

Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về lao động; người lao động là người quản lý doanh nghiệp hưởng tiền lương, tiền công theo quy định của pháp luật về tiền lương, tiền công; cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật (gọi chung là người lao động).

Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn, kỹ thuật đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân. 

Người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng.

Người đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng do bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

Người đã thôi hưởng trợ cấp mất sức lao động đang hưởng trợ cấp hàng tháng từ ngân sách Nhà nước.

Cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp BHXH hàng tháng.

Cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp từ ngân sách Nhà nước hàng tháng.

Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Người có công với cách mạng.

Cựu chiến binh theo quy định của pháp luật về cựu chiến binh.

Người trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước theo quy định của Chính phủ.

Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đương nhiệm.

Người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật.

Người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn.

Thân nhân của người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng.

Thân nhân của các đối tượng sau đây theo quy định của pháp luật về sĩ quan Quân đội nhân dân, nghĩa vụ quân sự, Công an nhân dân và cơ yếu:

Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp thuộc Quân đội nhân dân đang tại

ngũ; hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ trong Quân đội nhân dân;

Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn, kỹ thuật đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ

Công an nhân dân phục vụ có thời hạn;

Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp đang làm công tác cơ yếu tại Ban Cơ yếu Chính phủ và người đang làm công tác cơ yếu hưởng lương theo bảng lương cấp bậc quân hàm sĩ quan QĐND và bảng lương quân nhân chuyên nghiệp thuộc QĐND nhưng không phải là quân nhân, công an nhân dân.

Trẻ em dưới 6 tuổi.

Người đã hiến bộ phận cơ thể người theo quy định của pháp luật về hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác.

Người nước ngoài đang học tập tại Việt Nam được cấp học bổng từ ngân sách của Nhà nước Việt Nam.

Người thuộc hộ gia đình cận nghèo.

Học sinh, sinh viên.

Người thuộc hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp.

Thân nhân của người lao động 

Xã viên hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể.

Các đối tượng khác theo quy định của Chính phủ.

Lộ trình thực hiện BHYT toàn dân 

Đối tượng quy định từ khoản 1 đến khoản 20 Điều 12 của Luật thực hiện bảo hiểm y tế từ ngày 1/7/2009;

Học sinh sinh viên có trách nhiệm tham gia BHYT từ ngày 01/01/ 2010;

Người thuộc hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có trách nhiệm tham gia BHYT từ ngày 01/01/2012;

Thân nhân người lao động; xã viên hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể và các đối tượng còn lại khác có trách nhiệm tham gia BHYT từ ngày 01/01/2014;

Mức đóng và trách nhiệm đóng BHYT

Luật BHYT quy định mức đóng hàng tháng của đối tượng tối đa bằng 6% mức tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương tối thiểu. Từ 1/1/2010 mức đóng hằng tháng của đối tượng bằng 4,5% mức tiền lương, tiền công, lương hưu, tiền trợ cấp, mất sức lao động, mức lương tối thiểu, cụ thể: 

Người lao động được hưởng tiền lương, tiền công theo quy định của pháp luật: Bằng 4,5% mức tiền lương, tiền công hàng tháng của người lao động trong đó người lao động đóng 1/3, người sử dụng lao động đóng 2/3.

Học sinh sinh viên: bằng 3% mức lương tối thiểu

Ngân sách Nhà nước bảo đảm cho một số đối tượng: Người nghèo, người có công, người cao tuổi… 

Ngân sách Nhà nước hỗ trợ tối thiểu 50% mức đóng đối với hộ gia đình cận nghèo; hỗ trợ tối thiểu 30% – 50% mức đóng đối học sinh sinh viên

Giảm mức đóng khi tham gia BHYT theo hộ gia đình. 

Thẻ bảo hiểm y tế

Mỗi người chỉ được cấp một thẻ BHYT và thời điểm thẻ BHYT có giá trị sử dụng được quy định như sau:

Đối với người tự nguyện tham gia BHYT nếu đóng BHYT liên tục kể từ lần thứ hai trở đi hoặc người tham gia BHYT quy định của Luật này thì thẻ BHYT có giá trị sử dụng kể từ ngày đóng BHYT;

Đối với người tự nguyện tham gia BHYT đóng BHYT lần đầu hoặc đóng BHYT không liên tục thì thẻ BHYT có giá trị sử dụng sau 30 ngày, kể từ ngày đóng BHYT; riêng đối với quyền lợi về dịch vụ kỹ thuật cao thì thẻ BHYT có giá trị sử dụng sau 180 ngày, kể từ ngày đóng BHYT;

Thẻ BHYT của trẻ em dưới 6 tuổi thì có giá trị sử dụng đến ngày trẻ đủ 72 tháng tuổi.

Thẻ BHYT bị thu hồi trong trường hợp: Gian lận trong việc cấp thẻ

BHYT; người có tên trong thẻ BHYT không tiếp tục tham gia BHYT. Thẻ BHYT bị tạm giữ trong trường hợp người đi KCB sử dụng thẻ BHYT của người khác. Người có thẻ BHYT bị tạm giữ có trách nhiệm đến nhận lại thẻ và nộp phạt theo quy định của pháp luật.

Phạm vi được hưởng bảo hiểm y tế

Người tham gia BHYT được quỹ BHYT chi trả các chi phí sau

KCB, phục hồi chức năng, khám thai định kỳ, sinh con;

Khám bệnh để sàng lọc, chẩn đoán sớm một số bệnh; 

Vận chuyển người bệnh từ tuyến huyện lên tuyến trên trong trường hợp cấp cứu hoặc khi đang điều trị nội trú phải chuyển tuyến chuyên môn kỹ thuật đối với các đối tượng sau: (1) Người có công với cách mạng; (2)Người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội; (3) Người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn;(4) Trẻ em dưới 6 tuổi; (5) Người thuộc hộ gia đình cận nghèo.

Mức hưởng BHYT

Luật quy định mức hưởng cụ thể theo các nhóm đối tượng, theo tuyến, theo các hạng bệnh viện khác nhau cho 2 trường hợp: (1) Đi KCB theo đúng quy định của Luật; (2) Đi KCB không đúng quy định của Luật.

Người tham gia BHYT khi đi KCB theo đúng quy định của Luật thì được quỹ BHYT thanh toán theo 3 mức: 

100% chi phí KCB đối với đối tượng quy định tại các khoản 2, 9 và 17 Điều 12 của Luật; Chi phí cho một lần KCB thấp hơn 15% mức lương tối thiểu và KCB tại tuyến xã;

95% chi phí KCB đối với đối tượng quy định tại các khoản 3, 13 và 14 Điều 12 của Luật;

80% chi phí KCB đối với các đối tượng khác.

Trường hợp sử dụng DVKT cao, chi phí lớn, quỹ thanh toán theo mức như trên nhưng không vượt quá 40 tháng lương tối thiểu cho một lần sử dụng dịch vụ kỹ thuật đó;

KCB không đúng cơ sở KCB ban đầu hoặc KCB không theo tuyến chuyên môn kỹ thuật (trừ trường hợp cấp cứu) thì được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán theo 3 mức: 

70% chi phí đối với cơ sở KCB hạng III  

50% chi phí đối với cơ sở KCB hạng II 

30% chi phí đối với cơ sở KCB hạng I, hạng đặc biệt 

Trường hợp sử dụng DVKT cao, chi phí lớn, quỹ thanh toán theo các mức quy định như trên nhưng không vượt quá 40 tháng lương tối thiểu cho một lần sử dụng dịch vụ kỹ thuật đó.

Một số quy định khác

Trường hợp tự chọn thầy thuốc, tự chọn buồng bệnh: Quỹ bảo hiểm y tế thanh toán chi phí KCB theo giá dịch vụ hiện hành của Nhà nước áp dụng cho cơ sở KCB đó và theo mức hưởng quy định 

KCB tại các cơ sở y tế ngoài công lập được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán theo mức hưởng quy định của Luật và theo giá dịch vụ áp dụng đối với các cơ sở KCB công lập tương đương tuyến chuyên môn kỹ thuật.

Quỹ BHYT thanh toán 50% chi phí của thuốc điều trị ung thư, thuốc chống thải ghép ngoài danh mục quy định của Bộ Y tế nhưng đã được phép lưu hành tại Việt Nam theo chỉ định của cơ sở y tế theo mức hưởng quy định đối với một số trường hợp: Người bệnh tham gia BHYT liên tục từ đủ 36 tháng trở lên; Trẻ em dưới 6 tuổi…; 

Luật BHYT cũng quy định cụ thể việc thanh toán trong một số trường hợp: Chi phí vận chuyển người bệnh; Tai nạn giao thông; KCB ngoài giờ hành chính; khám chữa bệnh trong những ngày nghỉ, ngày lễ; KCB tại cơ sở y tế không ký hợp đồng KCB BHYT; không đủ thủ tục khám chữa bệnh hoặc KCB ở nước ngoài. 

Quỹ BHYT không thanh toán trong các trường hợp sau:

Các chi phí đã được ngân sách Nhà nước chi trả.

Điều dưỡng, an dưỡng tại cơ sở điều dưỡng, an dưỡng. – Khám sức khỏe.

Xét nghiệm, chẩn đoán thai không nhằm mục đích điều trị.

Sử dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, nạo hút thai, phá thai, trừ trường hợp phải đình chỉ thai nghén do nguyên nhân bệnh lý của thai nhi hay của sản phụ.

Sử dụng dịch vụ thẩm mỹ.

Điều trị lác, cận thị và tật khúc xạ của mắt.

Sử dụng vật tư y tế thay thế bao gồm chân tay giả, mắt giả, răng giả, kính mắt, máy trợ thính, phương tiện trợ giúp vận động trong KCB và PHCN – KCB, PHCN đối với bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động, thảm họa.

KCB trong trường hợp tự tử, tự gây thương tích.

KCB nghiện ma túy, nghiện rượu hoặc chất gây nghiện khác.

KCB tổn thương về thể chất, tinh thần do hành vi vi phạm pháp luật của người đó gây ra.

Giám định y khoa, giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.

Tham gia thử nghiệm lâm sàng, nghiên cứu khoa học.

Tổ chức khám chữa bệnh cho người tham gia bhyt

Cơ sở KCB BHYT 

Cơ sở KCB BHYT là cơ sở y tế có ký hợp đồng KCB với tổ chức BHYT, bao gồm: Trạm y tế xã và tương đương, nhà hộ sinh; Phòng khám đa khoa, chuyên khoa; Bệnh viện đa khoa, chuyên khoa. 

Đăng ký KCB BHYT

Người tham gia BHYT có quyền đăng ký KCB BHYT ban đầu tại cơ sở KCB tuyến xã, tuyến huyện hoặc tương đương; một số trường hợp được đăng ký tại cơ sở KCB tuyến tỉnh hoặc tuyến trung ương thực hiện theo quy định tại Thông tư số 10/2009/TT-BYT ngày 14/8/2009 của Bộ trưởng Bộ Y tế. 

Trường hợp người tham gia BHYT phải làm việc lưu động hoặc đến tạm trú tại địa phương khác thì được KCB ban đầu tại cơ sở KCB phù hợp với tuyến chuyên môn kỹ thuật và nơi người đó đang làm việc lưu động, tạm trú theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế. 

Chuyển tuyến điều trị

Người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế được chuyển tuyến khám, chữa bệnh tùy theo mức độ bệnh tật, phù hợp với phạm vi chuyên môn và phân tuyến kỹ thuật trong khám chữa bệnh theo quy định và được quy định cụ thể tại Thông tư số 10 như sau:

Trường hợp các dịch vụ kỹ thuật mà cơ sở khám chữa bệnh đã được phê duyệt nhưng vì lý do khách quan không thể thực hiện được thì cơ sở khám chữa bệnh đó được phép chuyển người bệnh đến cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế khác có khả năng thực hiện kỹ thuật đó để điều trị.

Trường hợp người bệnh đã được cấp cứu, điều trị mà vẫn phải tiếp tục theo dõi, điều trị nhưng vượt quá khả năng đáp ứng về cơ sở vật chất của cơ sở khám chữa bệnh (tình trạng quá tải) thì cơ sở KCB được phép chuyển người bệnh đến cơ sở khám chữa bệnh BHYT khác có khả năng cấp cứu, điều trị người bệnh.

Trường hợp người bệnh đã được cấp cứu, điều trị đến giai đoạn ổn định nếu cần điều trị, theo dõi, chăm sóc tiếp thì chuyển đến cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế nơi chuyển bệnh nhân đến hoặc cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu hoặc cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế khác nếu cơ sở đó đồng ý tiếp nhận và điều trị. 

Căn cứ điều kiện thực tế của địa phương và khả năng đáp ứng của cơ sở khám chữa bệnh, Sở Y tế chủ trì phối hợp với Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố quy định các đối tượng, số lượng người tham gia bảo hiểm y tế được đăng ký khám chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu, các trường hợp chuyển tuyến giữa các địa bàn để bảo đảm chất lượng khám bệnh, chữa bệnh, tránh quá tải.

Thủ tục KCB BHYT

Người tham gia BHYT khi đến KCB phải xuất trình thẻ BHYT có ảnh; trường hợp thẻ BHYT chưa có ảnh thì phải xuất trình thẻ BHYT cùng với giấy tờ chứng minh về nhân thân của người đó; 

Trẻ em dưới 6 tuổi khi đi khám chữa bệnh phải xuất trình thẻ BHYT; trường hợp chưa có thẻ BHYT thì xuất trình giấy khai sinh hoặc giấy chứng sinh; trường hợp phải điều trị ngay sau khi sinh mà chưa có giấy chứng sinh thì thủ trưởng cơ sở y tế và cha (hoặc mẹ) hoặc người giám hộ của trẻ ký xác nhận vào hồ sơ bệnh án để thanh toán với Bảo hiểm xã hội.

Trường hợp cấp cứu, người tham gia BHYT được KCB tại bất kỳ cơ sở KCB nào và phải xuất trình thẻ BHYT, các giấy tờ quy định trước khi ra viện.

Trường hợp chuyển tuyến điều trị, người tham gia BHYT phải có hồ sơ chuyển viện của cơ sở KCB; trường hợp khám lại theo yêu cầu điều trị, người tham gia BHYT phải có giấy hẹn khám lại của cơ sở KCB.

Trường hợp đi khám chữa bệnh mà không phải trong tình trạng cấp cứu khi đi công tác, khi làm việc lưu động hoặc đến tạm trú tại địa phương khác thì được KCB ban đầu tại cơ sở y tế tương đương với cơ sở đăng ký khám chữa bệnh ban đầu ghi trên thẻ và ngoài việc phải xuất trình các giấy tờ quy định và giấy công tác hoặc giấy đăng ký tạm trú để được hưởng quyền lợi BHYT

Hợp đồng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế

Bảo hiểm xã hội có trách nhiệm ký hợp đồng với cơ sở y tế. Căn cứ phạm vi, tính chất chuyên môn, hình thức thanh toán được áp dụng, hai bên thống nhất bổ sung, hoàn chỉnh các điều khoản cụ thể trong hợp đồng. Hằng năm, hai bên tổ chức thanh lý hợp đồng và xem xét, điều chỉnh bổ sung các điều khoản của hợp đồng cho năm tới. Việc hợp đồng khám bệnh chữa bệnh BHYT tại Trạm y tế xã và tương đương được quy định:

Bảo hiểm xã hội ký hợp đồng với Bệnh viện huyện hoặc Bệnh viện đa khoa khu vực (nơi không có Bệnh viện huyện) hoặc Trung tâm y tế huyện nơi chưa tách riêng Bệnh viện huyện để tổ chức thực hiện khám bệnh, chữa bệnh BHYT ban đầu tại Trạm y tế xã. 

Bệnh viện huyện hoặc Trung tâm y tế huyện có trách nhiệm cung ứng thuốc, hóa chất, vật tư y tế cho Trạm y tế xã và thanh toán chí phí sử dụng giường bệnh (nếu có), các dịch vụ kỹ thuật do Trạm y tế xã thực hiện trong phạm vi chuyên môn được quy định; Việc lưu người bệnh để theo dõi và điều trị tại Trạm y tế xã thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế nhưng số ngày lưu theo dõi không quá 3 ngày. Riêng đối với các Trạm y tế xã thuộc vùng khó khăn theo Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ  tướng Chính phủ, Giám đốc Sở Y tế quy định việc tổ chức điều trị nội trú tại Trạm y tế xã nhưng số ngày điều trị không quá 5 (năm) ngày. Tổng quỹ để bảo đảm khám bệnh, chữa bệnh tại trạm y tế xã không thấp hơn 10% quỹ khám bệnh, chữa bệnh BHYT theo số thẻ đăng ký khám chữa bệnh BHYT tại Trạm y tế xã.

Thanh toán chi phí khám chữa bệnh bhyt 

Phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh bhyt 

Luật quy định 3 phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT tại các cơ sở khám chữa bệnh :

Thanh toán theo định suất là thanh toán theo định mức chi phí KCB và mức đóng tính trên mỗi thẻ BHYT được đăng ký tại cơ sở KCB BHYT trong một khoảng thời gian nhất định. 

Thanh toán theo giá dịch vụ là thanh toán dựa trên chi phí của thuốc, hóa chất, vật tư, thiết bị y tế, dịch vụ kỹ thuật y tế được sử dụng cho người bệnh;

Thanh toán theo trường hợp bệnh là thanh toán theo chi phí KCB

được xác định trước cho từng trường hợp theo chẩn đoán.

Việc tạm ứng, thanh toán, quyết toán chi phí kcb bhyt

Cơ sở KCB BHYT được tạm ứng kinh phí hàng quý tối thiểu bằng 80% chi phí KCB BHYT thực tế của quý trước đã được quyết toán. 

Việc thanh toán, quyết toán giữa cơ sở KCB và tổ chức BHYT được thực hiện hằng quý như sau:

Trong tháng đầu của mỗi quý, cơ sở KCB BHYT có trách nhiệm gửi báo cáo quyết toán chi phí KCB BHYT của quý trước cho tổ chức BHYT;

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo quyết toán của cơ sở KCB BHYT, tổ chức BHYT có trách nhiệm xem xét và thông báo kết quả quyết toán chi phí. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông báo kết quả quyết toán, tổ chức BHYT phải hoàn thành việc thanh toán với cơ sở KCB. 

Trong thời hạn 40 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị thanh toán của người tham gia BHYT KCB theo quy định tổ chức BHYT phải thanh toán chi phí KCB trực tiếp cho các đối tượng này

Một số quy định về qũy bảo hiểm y tế 

Quỹ BHYT được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch và có sự phân cấp quản lý trong hệ thống tổ chức BHYT. Tổng số thu bảo hiểm y tế của Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố được phân bổ và quản lý như sau: 

90% số thu bảo hiểm y tế (gọi là quỹ khám bệnh, chữa bệnh) để lại Bảo hiểm xã hội tỉnh quản lý.

10% số thu bảo hiểm y tế chuyển Bảo hiểm xã hội Việt Nam quản lý để lập quỹ dự phòng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế và chi phí quản lý BHYT

Quỹ khám chữa bệnh do BHXH tỉnh quản lý được sử dụng như sau:

Chi trả các khoản chi phí KCB bảo hiểm y tế; 

Trích chuyển 12% quỹ khám bệnh, chữa bệnh của đối tượng học sinh, sinh viên cho cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân để chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh, sinh viên.

Trường hợp quỹ khám bệnh, chữa bệnh do Bảo hiểm xã hội tỉnh quản lý trong năm không sử dụng hết được sử dụng như sau:

60% sử dụng để mua sắm, bảo dưỡng trang thiết bị y tế, đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ và những khoản chi khác để phục vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế tại địa phương theo hướng dẫn của liên Bộ Y tế – Tài chính;

40% chuyển về Bảo hiểm xã hội Việt Nam để bổ sung vào quỹ dự phòng khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế.

Ngoài ra, Luật BHYT cũng quy định cụ thể quyền, trách nhiệm của các bên liên quan trong thực hiện BHYT, đồng thời xác định rõ: Thanh tra y tế thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về BHYT. Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính về BHYT, việc tố cáo và giải quyết tố cáo vi phạm pháp luật về BHYT được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo./.

Những khó khăn, bất cập trong triển khai thực hiện luật bảo hiểm y tế

Trong thời gian qua việc triển khai thực hiện Luật BHYT đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng vẫn còn một số khó khăn, bất cập: 

Trong mở rộng và phát triển đối tượng tham gia bhyt

Tỷ lệ tham gia BHYT chưa đầy đủ, tính tuân thủ pháp luật chưa cao. Trong khoảng 40% dân số chưa tham gia BHYT, có cả đối tượng tham gia

BHYT bắt buộc và đối tượng được ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần mức đóng (Người lao động trong các doanh nghiệp mới đạt 53,4% và có khoảng 13,1% số người cận nghèo). Tỷ lệ tham gia BHYT của nhóm tự nguyện đóng BHYT chỉ đạt trên 18% tổng số đối tượng. Một số nguyên nhân chủ yếu:

Các doanh nghiệp không đóng hoặc trốn đóng BHYT cho người lao động do nhận thức của chủ sử dụng lao động chưa đầy đủ, một bộ phận người lao động còn thiếu hiểu biết về chính sách BHYT. 

Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa Sở, ngành trong chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện Luật BHYT đối với một số nhóm đối tượng: Cận nghèo, học sinh, sinh viên; trẻ dưới 6 tuổi  

Số người tự nguyện tham gia BHYT còn thấp, đa số trong đó là những người mắc bệnh mãn tính, bệnh hiểm nghèo mới tham gia để được hưởng chi phí KCB từ quỹ BHYT. 

Tổ chức khám chữa bệnh bhyt

Chất lượng khám, chữa bệnh nhìn chung còn chưa đáp ứng nhu cầu KCB của nhân dân nhất là ở tuyến y tế cơ sở và các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa do điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, quy định phạm vi chuyên môn, năng lực cán bộ còn hạn chế. Hầu hết các các bệnh viện đều quá tải, nhất là ở các cơ sở tuyến tỉnh, tuyến trung ương. 

Tình trạng khám, chữa bệnh vượt tuyến dẫn tới sự quá tải ở tuyến trên và người dân chưa hài lòng vì thủ tục KCB và phải mất thời gian chờ đợi.  – Việc tổ chức, quản lý KCB tại Trạm y tế xã còn một số khó khăn vướng mắc do việc tổ chức KCB tại Trạm y tế xã chưa thống nhất; điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực Trạm y tế xã còn hạn chế, vẫn còn 30% Trạm y tế xã chưa có bác sĩ. 

Khó khăn, vướng mắc trong thanh toán chi phí khám chữa bệnh bhyt

Việc thực hiện hợp đồng giữa cơ quan BHXH và cơ sở khám chữa bệnh chưa nghiêm, trong Hợp đồng không có đầy đủ thông tin để cơ sở KCB theo dõi, quản lý thông tin của các bên (số thẻ BHYT, về tổng quỹ…), ký hợp đồng và thanh lý hợp đồng hàng năm thực hiện chậm.

Quy định cùng chỉ trả (theo các mức 5% hoặc 20% tùy theo nhóm đối tượng) và phần chi phí mà người bệnh phải thanh toán đối với các dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn nếu vượt mức 40 tháng lương tối thiểu đã có tác động đáng kể đến người bệnh, nhất là những người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người mắc các bệnh mạn tính (chạy thận nhân tạo, ung thư, bệnh nội tiết..).    – Một số quy định khác cũng ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thực hiện Luật BHYT đó là: Giá thu một phần viện phí theo Nghị định 95 từ năm 1994 chưa được sửa đổi; quy định về đấu thầu, thanh toán thuốc BHYT 

Một số khó khăn, vướng mắc khác

Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật ở một số địa phương chưa được quan tâm đúng mức, một số cán bộ hiểu không đúng tinh thần của Luật và các văn bản hướng dẫn gây vướng mắc trong tổ chức thực hiện; người dân thiếu thông tin về những quy định mới của Luật BHYT nhất là vùng đặc biệt khó khăn.

Nhân lực của cả Sở Y tế và BHXH để tổ chức thực hiện và tham mưu chính sách còn thiếu. Sở Y tế chưa có bộ phận chuyên trách; số cán bộ theo dõi BHYT tại tỉnh chủ yếu là kiêm nhiệm. Ở tuyến huyện, theo quy định của

Thông tư liên tịch số 03/2008/TTLT-BYT-BNV ngày 25/4 /2008 của liên Bộ Y tế – Nội vụ, Phòng Y tế có chức năng tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về y tế trên địa bàn nhưng không quy định rõ chức tham mưu trong quản lý Nhà nước về BHYT.

Công tác thống kê, quản lý dữ liệu và thu thập thông tin về BHYT phục vụ cho quản lý, xây dựng chính sách, giám sát chưa kịp thời.

Số lượng cán bộ làm công tác giám định của BHXH hiện chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và sự gia tăng đối tượng tham gia BHYT, nhất là năng lực trong việc theo dõi, giám sát chất lượng khám chữa bệnh, thanh toán chi phí khám chữa bệnh.

Các biện pháp nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế

Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh đáp ứng sự hài lòng của người bệnh là một trong những yếu tố hấp dẫn người tham gia BHYT. Để thực hiện nhiệm vụ này, cùng với việc tiếp tục hoàn thiện một số văn bản quy phạm pháp luật như: Quy chế bệnh viện, các quy trình chuyên môn, kỹ thuật, các qui định cung ứng thuốc, chính sách viện phí, bảo hiểm y tế, chế độ phụ cấp cho cán bộ y tế cho phù hợp với tình hình hiện nay, Bộ Y tế tập trung triển khai một số giải pháp sau: .

Tăng cường tập huấn, tuyên truyền các chính sách pháp luật về BHYT, giúp cộng đồng hiểu biết đầy đủ Luật BHYT liên quan đến lợi ích, nghĩa vụ, quyền lợi của các đối tượng tham gia BHYT. Bên cạnh đó, các cơ sở KCB phải tăng cường nhân lực để giải thích cho bệnh nhân, người nhà bệnh nhân hiểu rõ các chính sách BHYT mới, nhất là việc thực hiện cùng chi trả chi phí khám chữa bệnh BHYT.

Triển khai các hoạt động giáo dục y đức, nâng cao tinh thần thái độ phục vụ người bệnh trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Thực hiện tốt quy tắc ứng xử, kỹ năng giao tiếp với người bệnh. Phát động phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mà trọng tâm là học tập làm theo lời dạy của Bác “Thầy thuốc như mẹ hiền”. 

Tiếp tục thực hiện Chương trình 527; Chỉ thị 06/2007/CT-BYT về việc nâng cao chất lượng KCB; đẩy mạnh thực hiện Đề án 1816 về luân phiên cán bộ từ tuyến trên hỗ trợ cho tuyến dưới.

Các cơ sở KCB duy trì và tăng cường các hoạt động để nâng cao chất lượng KCB như: bố trí kinh phí mua sắm các trang thiết bị phục vụ người bệnh trong thời gian chờ khám bệnh, tăng thêm giờ, thêm bàn khám bệnh, tăng thêm bàn thanh toán BHYT, trả kết quả xét nghiệm theo giờ… 

Rà soát các quy trình, thủ cải cách thủ tục hành chính trong KCB cho người có thẻ BHYT, giảm bớt các thủ tục không cần thiết nhằm làm giảm phiền hà cho người bệnh tạo sự hài lòng của người bệnh, góp phần củng cố, xây dựng niềm tin của nhân dân đối với ngành. Duy trì hoạt động có hiệu quả đường dây nóng, để kịp thời nắm thông tin và xử lý các tình huống. 

Triển khai, thực hiện tốt Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Triển khai, thực hiện tốt Thông tư liên tịch Bộ Y tế, Bộ Nội vụ số 08/2007/TTLT-BYTBNV hướng dẫn mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế Nhà nước để đảm bảo nguồn nhân lực hoạt động của đơn vị. 

Nâng cao năng lực y tế tuyến cơ sở đặc biệt là tuyến quận, huyện. Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án 1816, duy trì thực hiện đảm bảo định mức cán bộ, duy trì thời gian cử cán bộ đi luân phiên, quan tâm nhiều hơn đến chất lượng chuyển giao kỹ thuật, góp phần nâng cao hơn nữa trình độ, chuyên môn của cán bộ y tế, nâng cao chất lượng KCB cho tuyến dưới, nhất là đối với miền núi, vùng sâu, vùng xa.  

Thực hiện đồng bộ các giải pháp làm giảm tình trạng quá tải tại Bệnh viện, tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc chấn chỉnh công tác cung ứng sử dụng thuốc trong bệnh viện, phát huy vai trò của hội đồng thuốc và điều trị, tổ chức đấu thầu mua thuốc theo đúng quy định. 

Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm quy chế chuyên môn, quản lý và sử dụng quỹ BHYT trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Khen thưởng kịp thời về tinh thần và vật chất cho các tập thể và cá nhân có thành tích.

Ngoài ra, các đơn vị tăng cường đầu tư cho công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý bệnh viện; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý bệnh viện; thực hiện hiệu quả nguồn trái phiếu Chính phủ cho các dự án trong Quyết định 47, 930; tăng cường quan tâm đến các lĩnh vực như hợp tác quốc tế, mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế… 

Tài liệu tham khảo

Luật Bảo hiểm y tế

Nghị định 62/2009/NĐ – CP ngày 27/7/2009 của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo hiểm y tế 

Thông tư liên tịch số 09/2009/TTLT-BYT-BTC ngày 14/8/2009 của liên Bộ Y tế Tài chính hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế

Thông tư số 10/2009/TT-BYT ngày 14/8/2009 của Bộ Y tế hướng dẫn đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu và chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế.

Các Danh mục: dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn; thuốc BHYT; VTYT