Nội dung

Gây mê tĩnh mạch

Đại cương

Định nghĩa

Gây mê tĩnh mạch là một loại gây mê toàn thân, bằng cách dùng thuốc mê. thuốc ngủ, thuốc an thần tiêm qua đường tĩnh mạch hoặc bắp thịt, dẫn đến tình trạng mê có phục hồi trên lâm sàng. Bệnh nhân thở với khí trời hay oxy nhưng không lẫn hơi thuốc mê.

Trong gây mê tĩnh mạch nếu chỉ sử dụng một loại dung dịch thuốc mê thì gọi là gây mê tĩnh mạch đơn thuần; nếu phối hợp thêm thuốc giảm đau hay các dung dịch thuốc mê tĩnh mạch khác gọi là gây mê tĩnh mạch phối hợp.

Gây mê tĩnh mạch có thể để bệnh nhân tự thở hay chủ động đặt nội khí quản để đảm bảo an toàn đường thở cho bệnh nhân (không phải để dùng thuốc mê hơi).

Khái niệm về MIR

Prio Robert và đồng nghiệp đưa ra khái niện dược học lâm sàng MIR (minimum infusion rate), là chỉ số có hiệu lực của thuốc mê tĩnh mạch, biểu thị tốc độ tiêm truyền tối thiểu của thuốc mê tĩnh mạch có khả năng làm mất đáp ứng vận động với tác nhân kích thích khi rạch da ở 50% số bệnh nhân.

MIR được so sánh tương tự như khái niệm MAC (Minimum Alveolar Concentration) khi dùng thuốc mê đường hô hấp. MIR rất cần thiết để so sánh hiệu lực riêng của các thuốc mê tĩnh mạch.

Các phương thức gây mê tĩnh mạch chính

Phương thức đơn thuần với Thiopental: ngay từ 1935 Lundy đã giới thiệu phương thức này khi thiopental được Volwiler và Tabern tổng hợp (năm 1932).

Phương thức NLA (neurolepanalgesia); NNLA (Narco-NLA): năm 1960 De Castro và Mundeleer hệ thống thành các typ NLA1 NLA2 và NLA3. Phương thức này giữ bệnh nhân ở trạng thái dửng dưng, thờ ơ với ngoại cảnh nhưng vẫn còn ý thức nên vẫn cộng tác được và giảm đau tốt đã được sử dụng rộng rãi trong lâm sàng; nhưng nhược điểm là có thể suy hô hấp, bệnh nhân còn tỉnh biết, nhớ trong mê và khó duy trì hằng định độ mê.

Phương thức ANS (Anesthesia no stres, anesthesia analgesia): Là phương thức mê giảm đau trung ương, với đặc tính rất ổn định huyết động và độ mê, nên ban đầu được áp dụng trong các cuộc mổ tim hở, sau được chỉ định trên tất cả các phẫu thuật nặng, kéo dài, cần giảm đau và bảo vệ tốt hệ thần kinh thực vật… Nhưng nhược điểm nổi bật là cần hô hấp hỗ trợ nhiều giờ sau mổ, có thể còn nhớ trong mổ và hay bị hạ thân nhiệt.

Phương thức AAP (Anesthesia analgesia potentialise): còn gọi là gây mê tăng tiềm lực giảm đau bằng cách phối hợp thuốc giảm đau như fentanyl với thuốc an thần kinh benzodiazepin (seduxen, midazolam…); kỹ thuật này phát triển để phòng hiện tượng còn nhớ và biết trong mổ, kỹ thuật gây mê này phù hợp với các cuộc mổ vừa.

Phương thức đơn thuần với Ketamin (gây mê phân ly): thuận lợi nổi bật là dùng được cả bằng đường bắp thịt, khi huyết áp thấp, có tác dụng ngủ nông và giảm đau bề mặt tốt, giảm đau do tác dụng tổng hợp ở ba nơi: vùng thứ năm của sừng sau tủy sống, thân não và hệ thống đồi vỏ não…dùng đơn thuần thường ít áp dụng do các nhược điểm không ổn định huyết động, tăng tiết, kích thích cơ và ảo giác.

Phương thức đơn thuần với Propofol: khi dùng đơn thuần phải sử dụng ở nồng độ rất cao mới duy trì mê đầy đủ, kết quả là làm hồi tỉnh kéo dài cho nên có nhiều tác dụng phụ; propofol dùng một mình không cắt bỏ hết phản ứng stress và cảm giác đau…

Phương thức TIVA (Total intravenous anesthesia): Thực ra là tổng hợp cả các phương thức trên, nhưng đã nghiên cứu kỹ hơn về dược động học với liều đích được hiểu như MAC trong sử dụng thuốc mê hơi, trong đó thuốc có dược động học ổn định, tác dụng ngắn, tính được MIR như propofol, fentanyl, alfentanyl…là các thuốc chủ lực của phương pháp gây mê này. Ngày nay được phổ biến và sử dụng nhiều trong lâm sàng.

Cách đánh giá độ mê trong gây mê tĩnh mạch

Phân loại theo Guedel về các thời kỳ của gây mê mô tả với thuốc mê ether không áp dụng được để đánh giá độ mê trong gây mê tĩnh mạch. Khởi mê bằng thuốc mê đường tĩnh mạch, bệnh nhân ngay lập tức bước vào thời kỳ phẫu thuật, vả lại ngày nay gây mê thường dùng phối hợp nhiều loại thuốc như: thuốc mê, thuốc an thần, giảm đau… Cho nên việc xác định độ mê cần phải dựa trên những phản ứng của bệnh nhân đối với kích thích của phẫu thuật, trong thực hành lâm sàng người ta chia ra làm 3 mức độ mê:

Mức 1 (Độ mê  chưa đủ, trước mổ): mê nhẹ không đủ để phẫu thuật.

Mức 2 ( Độ mê phẫu thuật): mê đủ để mổ, bệnh nhân chịu đựng được.

Mức 3 (Độ mê quá sâu, quá liều thuốc mê): mê quá sâu, gây nguy hiểm cho tính mạng bệnh nhân.

Triệu chứng gây mê nông

Phản ứng đau với hệ giao cảm: Giãn đồng tử, huyết áp động mạch tăng khi kích thích đau, nhịp tim tăng, co mạch ngoại vi.

Phản ứng đau với hệ phó giao cảm: Tụt huyết áp động mạch, nhịp tim chậm.

Phản xạ tăng tiết: Đổ mồ hôi, chảy nước mắt, tăng tiết nước bọt.

Có các vận động ở mặt: Mở mắt, mắt nhấp nháy…

Các triệu chứng chống lại đối với khi đặt Canul Mayo hoặc khi đặt ống nội khí quản.

Những thay đổi về hô hấp: thở nhanh hoặc ngừng thở. Ngừng thở này dễ dàng phân biệt với dùng thuốc quá liều ở chỗ có kèm theo tăng trương lực cơ.

Triệu chứng của gây mê ở thời kỳ độ mê phẫu thuật

Tim mạch và hô hấp ổn định, không có rối loạn.

Không có đáp ứng khi kích thích phẫu thuật, đủ dãn cơ, đồng tử co nhỏ và cố định ở trung tâm, da ấm và hồng.

Quan sát cường độ đáp ứng với kích thích phẫu thuật cho phép đánh giá nhu cầu của thuốc mê tĩnh mạch.

Triệu chứng độ mê quá sâu (ngộ độc thuốc)

Suy toàn bộ tất cả các chức năng sống, đó là hậu quả của dùng thuốc quá liều với đặc trưng của các triệu chứng sau:

Tụt huyết áp động mạch và thay đổi nhịp tim, xuất hiện rối loạn nhịp tim trước khi ngừng tim.

Suy hô hấp nặng rồi ngừng thở.

Xanh tím và xuất hiện các vân tím ở đầu mút chân tay.

Nhẽo cơ…

Chỉ định và chống chỉ định

Chỉ định: phương pháp gây mê tĩnh mạch áp dụng cho một số trường hợp như: Phẫu thuật thời gian ngắn và trung bình; phẫu thuật không đòi hỏi dãn cơ; phẫu thuật ngoài ổ bụng, ngực; phẫu thuật ngoại trú. Trên các bệnh nhân có tình trạng hô hấp, tuần hoàn tương đối ổn định.

Chống chỉ định: Phẫu thuật thời gian mổ dài; Phẫu thuật ổ bụng, ngực, sọ não; phẫu thuật đòi hỏi phải dãn cơ; bệnh nhân có tình trạng hô hấp, tuần hoàn không ổn định; những bệnh nhân bị suy gan, suy thận. Không nên sử dụng cho các phẫu thuật lớn và kéo dài vì vừa tốn thuốc vừa nguy hiểm cho bệnh nhân.

Thuốc mê tĩnh mạch không được dùng trong những trường hợp sau:

Bệnh nhân có tiền sử dị ứng với thuốc đang dùng.

Không có phương tiện để cấp cứu hô hấp tuần hoàn.

Không có đường truyền tĩnh mạch chắc chắn.

Người sử dụng thiếu kinh nghiệm.

Một số thuốc dùng để gây mê tĩnh mạch

Những yêu cầu chính của một thuốc mê tĩnh mạch lý tưởng cần có các tính chất sau:

Khởi mê nhanh, dịu dàng không có các tác dụng phụ kèm theo như tăng trương lực, cử động cơ, kích thích.

Giảm tối thiểu các tác dụng phụ đối với hệ hô hấp, tuần hoàn.

Có tác dụng giảm đau, càng nhiều càng tốt.

Phục hồi nhanh khi chấm dứt sử dụng và khi tỉnh mê ít có tác dụng khó chịu như kích thích, ảo giác, nôn, mửa.

Không có tác dụng phóng thích histamin.

Làm giảm áp lực nội sọ, giảm tiêu thụ oxy của tế bào não.

Không gây kích thích các mô xung quanh hoặc trong tĩnh mạch.

Hòa tan và ổn định trong dung môi nước, có thể dùng thời gian dài sau khi pha.

Tuy vậy, cho đến nay chưa có một thuốc mê tĩnh mạch nào hội tụ đầy đủ tất cả các yêu câu và tính chất trên, vì vậy trong thực tế thường phối hợp các thuốc để giảm những tác dụng không mong muốn. Những thuốc thường dùng để gây mê tĩnh mạch hiện nay là: thiopental (pentothal, nesdonal), ketamin (kétalar, kétaject), propofol (diprivan, fressofol), benzodiazepines (diazepam, midazolam), thalamonal, etomidat …

gây mê tĩnh mạch với thiopental

Dược lý

Thiopental là chất bột màu vàng có mùi tỏi pha với nước cất thành dung dịch nồng độ 2,5% có pH = 10,5. ổn định trong phòng lạnh khoảng 48 giờ, không dùng nếu thuốc bị vẩn đục. Dung dịch thường dùng nhất nồng là độ 2,5% (có thể từ 0,5- 2,5%).

Thuốc được chuyển hoá phần lớn tại gan, phần khác tại thận, bắp thịt, não. Chất chuyển hóa được thải qua nước tiếu. sự chuyển hóa khoảng 10-15% tổng liều mỗi giờ. Sự tái phân phối giữ vai trò quan trọng đôi với thời gian tác dụng. Tích tụ nhiều trong mỡ, cơ bắp.

Khi tiêm vào máu, khoảng 60-70% pentothal gắn vào protein, chỉ còn 30% ở trạng thai tự do có hoạt tính. Khi có tình trạng nhiễm toan lượng pentothal gắn vào protein giảm nên dễ làm tăng độ mê.

Hiện tượng dung nạp cấp tính: cơ chế chưa rõ, ban đầu tiêm một lương thuốc mê nhỏ, người bệnh sẽ tỉnh dậy khi nồng độ pentothal ở mức thấp. Có sự liên hệ giữa liêu lượng pentothal khi khởi mê và nồng độ pentothal trong máu khi người bệnh tỉnh mê.

Tác dụng của barbituric nói chung

Đối với hệ thần kinh trung ương: tùy theo liều lượng: an thần, ngủ, mê và ức chế hô hấp. Khi tiêm vào tĩnh mạch gây ngủ rất nhanh khoảng 30 giây. Không giảm đau, giảm chuyển hoá, giảm nhu cầu oxy của tế bào não. Giảm lượng máu tưới não. Giảm áp suất nội não. Giảm áp suất nội nhãn.

Đôi với hệ thần kinh thực vật làm cường đối giao cảm: cho nên cần dùng atropine trong thuốc tiền mê để làm giảm tác dụng cường đối giao cảm này

Đôi với hệ hô hấp: suy nhược trung tâm hô hấp, tùy thuộc liều lượng và vận tốc tiêm thuốc, có thể gây suy hô hấp hoặc ngừng thở. Cần dùng lượng ít và tiêm chậm.

Tăng phản xạ co thắt hầu, thanh quản, khí quản khi kích thích ở tình trạng mê nông.

Đôi với hệ tuần hoàn: Sức co bóp của cơ tim giảm, giảm cung lượng tim gây tụt huyết áp, tùy thuộc liều lượng và vận tốc tiêm thuốc. Giảm sức co bóp thành mạch máu gây dãn mạch giữ máu ở các cơ quan.

Đối với cơ quan khác: giảm lưu lượng máu đến gan, thận. Không làm thay đổi sức co tử cung,  thuốc qua nhau thai dễ dàng

Sử dụng trong lâm sàng

Khởi mê trong gây mê toàn thân.

Người bệnh được sửa soạn như những trường hợp gây mê thông thường khác: nhịn ăn uống, đầy đủ dụng cụ: Oxy, giúp thở, máy hút, đèn ống nội khí quản.

Tiền mê bằng atropine, thuốc cảm đau.

Lìêu dùng từ 5-7mg/kg. người bệnh sẽ mê sau 30-60 giây và kéo dài 5-7 phút. Nếu muốn duy từ độ mê cần tiêm nhắc lại 20 – 25% liều đầu khi ngươi bệnh có dấu hiệu tỉnh.

Duy trì giấc mê:

Thiopental không phải là thuốc chọn lọc để duy trì mê, bởi vì nó không có tính giảm đau, đào thải chậm, có nguy cơ tích lũy thuốc, mặc dù tiêm nhắc lại hay truyền tĩnh mạch liên tục. Trừ những trường hợp gây mê ngắn, những phẫu thuật đơn giản, Thiopental thường được kết hợp với N2O  và dưỡng khí, với cách dùng này có thể giảm được phân nửa lượng thiopental, ngăn ngừa thiếu dưỡng khí và duy trì được giấc mê êm dịu.

Liều lượng Thiopental tùy thuộc tình trạng thể chất người bệnh, thuốc tiền mê, tính chất và thời gian của cuộc mổ (l gam trong 1-2 giờ)

Người bệnh mê nông khi phản ứng với những kích thích đau và mê quá sâu khi thở quá nhẹ: huyết áp tụt, phân loại theo Guedel không áp dụng được để đánh giá độ mê.

Tác dụng an thần và bảo vệ não: Được sử dụng như thuốc bảo vệ não trong gây mê mổ sọ não

Tai biến và biến chứng

Tiêm thuốc ra ngoài mạch máu: thấy đau chỗ tiêm khi bệnh nhân tỉnh.

Điêu trị: tiêm 5-10 ml procain hay lidocaine 0,5-1% vào vùng bị ảnh hưởng

Tiêm vào động mạch: người bệnh đau đột ngột, cảm giác cháy bỏng do co thắt động mạch gây thiếu máu nuôi phần chi ở xa.

Điều trị: Giữ kim tại chỗ và tiêm vào procaine 0,5% 10 – 20 ml, papaverine 40-80 mg trong 10 – 20 ml nước muối sinh lý. Gây mê với halothane để làm dãn mạch hay làm tê hạch sao, tê đám rối cánh tay.

Ho sặc và co thắt thanh khí quản: có thể do bệnh nhân suyễn, viêm phế quản hay kích thích do đau đớn, dụng cụ chắn lưỡi.

Xử trí tùy nguyên nhân, cho thở dưỡng khí, có thể dùng dãn cơ.

Suy hô hấp: có thể do quá liều, do tiêm nhanh, tụt lưỡi, co thắt thanh quản.

Xử trí: Điều khiển hô hấp với dưỡng khí.

Trụy tim mạch: do thuốc làm dãn mạch, ức chế cơ tim.

Xử trí: truyền dịch, thở dưỡng khí, dùng thuốc vận mạch.

Chóng mặt, mất đinh hướng khi tỉnh mê: không nên để người bệnh tự đi lại, lái xe khi vừa tỉnh mê.

Phản ứng di ứng: nổi mẩn đỏ ngoài da do phóng thích histamine. Có thể gây phản ứng quá mẫn.

gây mê tĩnh mạch với ketamin

Ketamin là dẫn xuất của phencyclidin, có tác dụng chọn lọc trên một số vùng ở não bộ để thay thế cho những thuốc mê có tác dụng mê toàn diện. Ketamin tạo nên một giấc mê bằng một trạng thái phân ly về chức năng và điện sinh lý học giữa đồi thị và hệ thống bìa (limbic system).

dược lý

Ketamin là thuốc giảm đau rất mạnh ớ bề mặt da và cơ bắp vì vậy rất thích hợp cho các phẫu thuật bỏng, không làm giảm đau nội tạng. Điều không thuận lợi là ketamin có thể gây ảo giác và những cơn ác mộng kéo dài sau mổ, tăng tiết đờm dãi, phản xạ hầu, thanh quản không bị mất nên không ngăn ngừa được hít chất nôn.

Hô hấp không bị ức chế trừ khi dùng liều cao, tuần hoàn được kích thích: tăng huyết áp và mạch, tăng trương lực cơ vân.

Tăng áp suất nội sọ, tăng áp suất nội nhãn thoáng qua, nhãn cầu có thể co giật và di động vì vậy cần chú ý trong các phẫu thuật về sọ não và phẫu thuật ở mắt.

Ketamin làm gia tăng sự tiêu thụ ôxy của cơ tim vì vậy không nên dùng trong trường hợp suy mạch vành nặng hoặc suy tim mất bù…

sử dụng trong lâm sàng

Ketamin là thuốc mê rất tiện dùng trong những trường hợp bệnh nhân có huyết áp thấp, thiếu khối lượng tuần hoàn.

Phải tiền mê với atropin, thuốc an thần giảm đau để giảm xuất tiết, ảo giác và giảm liều thuốc mê.

Khởi mê

Tiêm tĩnh mạch: 1-3 mg/kg, sau khoảng 1 phút có thể mổ được.

Tiêm bắp thịt 5-7mg/kg, rất tốt để khởi mê ở trẻ em, sau 2-3 phút có thể rạch da với liều này có thể kéo dài thời gian mê từ 10-15 phút.

Duy trì mê

Duy trì mê với những liều nhỏ bằng 20-25% liều đầu tiêm tĩnh mạch lại khi bệnh nhân có dấu hiệu tỉnh.

Ketamin giảm đau mạnh nhưng ít hiệu quả với nguồn đau từ nội tạng, vì vậy không thích hợp cho những phẫu thuật trong ổ bụng ngực trừ khi kết hợp với thuốc mê tĩnh mạch khác, thuốc giảm đau trung ương hoặc thuốc mê hô hấp và thuốc dãn cơ.

Chi định thích hợp cho trẻ em, người trẻ, huyết áp thấp, bệnh bỏng, người bị suyễn, phẫu thuật ngắn, khởi mê nhanh.

Chống chỉ định: huyết áp cao, bệnh tâm thần, tai biến mạch máu não, dị ứng thuốc, tăng áp lực nội sọ.

Giai đoạn tỉnh mê

Để tránh ảo giác, ác mộng cần cho diazepam 5-10 mg, thiopental 50-100 mg khi gần chấm dứt phẫu thuật.

Sau khi gây mê với ketamin, bệnh nhân cần được săn sóc đặc biệt, tránh mọi kích thích như sờ mó, vỗ về, tránh ánh sáng, tránh tiếng động.

gây mê tĩnh mạch propofol

Propofol (Diprivan, Fressofol) trình bày dưới dạng nhũ tương, rất ít tan trong nước. Trong mỗi ống thuốc có 200mg propofol trong 20 ml nhũ tương (nồng độ 1%).

dược lý

Sau khi tiêm Propofol, bệnh nhân mê rất nhanh, êm dịu, rất hiếm khi có những cử động bất thường thời gian mê từ 3-6 phút và tỉnh dậy nhanh khi chấm dứt sử dụng thuốc.

Propofol làm giảm áp lực nội sọ, giảm tiêu thụ ôxy của tế bào não và giảm lưu lượng máu đến não.

Khi khởi mê có thể gây suy giảm hô hấp: giảm tần số thở và giảm thể tích khí thường lưu. Có một số trường hợp ngừng thở nhưng ít khi có co thắt khí phế quản.

Giảm huyết áp, trung bình từ 20-30%, giảm sức cản ngoại biên, giảm lưu lượng vành và giảm tiêu thụ oxy của cơ tim.

sử dụng trong lâm sàng

Khởi mê

Tiêm tĩnh mạch: 2-2,5 mg/kg/l phút, giấc mê đến rất nhanh. Bệnh nhân trên 60 tuổi cần giảm bớt liều.

Duy trì mê

Tiêm Propofol liều bằng 20-25% liều ban đầu khi người bệnh có dấu hiệu tỉnh hoặc truyền tĩnh mạch với tốc độ 0,1-0,2 mg/kg/phút.

Có thể phối hợp với thuốc mê khác hay phương pháp gây tê vùng, tê tại chỗ với liều 3-4 mg/kg/giờ để đảm bảo giấc mê nông, ít tác dụng thứ phát và tri giác bệnh nhân trở lại bình thường sau khi ngừng bơm thuốc khoảng 4-5 phút.

Giai đoạn tỉnh mê

Rất nhanh, khoảng 5-10 phút sau khi tiêm liều sau cùng bệnh nhân sẽ tỉnh táo tri giác trở lại bình thường.

Tai biến

Đau chỗ tiêm nếu tiêm nhanh, tĩnh mạch nhỏ. Cho nên cần tiêm thật chậm, nên dùng tĩnh mạch lớn, có thể pha với lidocain hay tiêm lidocain trước.

Nổi mẩn đỏ do phóng thích histamine: thường nhẹ và thoáng qua nhờ dùng dưới dạng nhũ tương.

Buồn nôn và nôn khi tỉnh mê ít gặp.

Kỹ thuật gây mê tĩnh mạch

chuẩn bị bệnh nhân

Thực hiện đầy đủ các yêu cầu của chuẩn bị bệnh nhân mổ có kế hoạch

Nhịn ăn uống: dạ dày không còn chứa thức ăn.

Chuẩn bị trước một đường truyền tĩnh mạch chắc chắn để tiêm thuốc, truyền dịch trong khi mổ: dùng tĩnh mạch lớn, kim luồn.

Cho thở oxy 100% qua mát hở hoặc qua ống thông mũi 3 – 5 lít/phút.

chuẩn bị dụng cụ và thuốc

Chuẩn bị phương tiện làm hô hấp nhân tạo: bóng bóp, mát, ống nội khí quản, mask thanh quản, oxy, máy hút, ống hút, đèn soi thanh quản. Nếu có thể có máy gây mê để sẵn thì càng tốt.

Pha dung dịch thiopental 2,5%, nếu bệnh nhân yếu thì pha dung dịch loãng hơn: 1,25%; 1% hoặc 0,5%; thuốc mê propofol hút sẵn ra bơm tiêm, nếu có thể có bơm tiêm điện dùng truyền liên tục propofol sẽ thuận tiện hơn.

Cần chuẩn bị sẵn các thuốc cấp cứu cơ bản.

tiến hành kỹ thuật

Nên để bệnh nhân nằm ngửa, đầu hơi nghiêng sang bên, hoặc kê một gối nhỏ dưới vai để tránh tụt lưỡi.

Tiền mê: chỉ nên cho atropin, thuốc ức chế bài tiết dịch vị, hạn chế sử dụng hoặc chỉ cho liều lượng nhỏ các thuốc an thần, giảm đau nhóm opioid để tránh ức chế hô hấp.

Khởi mê và duy trì mê:

Một vấn đề cần chú ý là trong gây mê tĩnh mạch là: thuốc mê tĩnh mạch tiêm vào mạch máu không thể lấy ra được, trong khi thuốc mê qua đường hô hấp dễ đào thải hơn ra hơn qua đường thở. Cho nên đầu tiên dùng liều nhỏ, nồng độ thấp, tiêm thật chậm vào tĩnh mạch và theo dõi, quan sát sự đáp ứng của bệnh nhân để dùng liều lượng thuốc thích hợp, không để quá liều.

Khởi mê bằng thiopental liều lượng 2-4mg/kg, tiêm chậm cho đến khi bệnh nhân mất tri giác; tiêm thêm 2-4ml nếu còn đau. Về sau mỗi lần bệnh nhân tỉnh tiêm thêm 2-4ml. Trong khi tiêm phải theo dõi thật sát nhịp thở, nếu có thay đổi như thở chậm lại hoặc nhanh hơn phải ngừng tiêm, cho bệnh nhân thở lại tốt rồi mới tiếp tục tiêm cho đến khi có thể mổ được.

Nếu dùng propofol, khởi mê bằng 2mg/kg, sau đó truyền tĩnh mạch liên tục bằng bơm tiêm điện liều lượng 5-10mg/kg/giờ, cần đánh giá tri giác và huyết động để điều chỉnh liều lượng thuốc cho phù hợp.

Từ thập niên 1990, khi hệ thống máy Diprifusor TM được đưa vào sử dụng với thuốc mê Propofol người ta nhận xét hệ thống này có ưu điểm là duy trì được độ mê thích hợp, ổn định huyết động, dễ sử dụng, có thể dự đoán được thời gian bệnh nhân hồi tỉnh. Phương pháp gây mê tĩnh mạch với nồng độ đích (Target Controlled Infusion: TCI) là phương pháp sử dụng phần mềm trên bộ máy bơm tiêm điện, để định ra nồng độ của thuốc gây mê trong huyết tương người bệnh tại thời điểm đó dựa trên dược động, dược lực học của thuốc đó. Với Propofol, bác sĩ sẽ căn cứ vào tình trạng bệnh nhân, tuổi tác, cân nặng và nồng độ Propofol trong máu mà bác sĩ muốn có. Với phương pháp gây mê tĩnh mạch nồng độ đích, nếu kết hợp dụng cụ theo dõi độ mê (Bispectral Index: BIS), sẽ giúp cho người bệnh đạt được độ mê thích hợp, và tránh cho bệnh nhân phải chịu đựng độ mê không thích hợp như độ mê quá nhiều hay quá ít, nhất là bệnh nhân tỉnh dậy trong lúc đang được gây mê phẫu thuật.

Thuận lợi và không thuận lợi của gây mê tĩnh mạch

thuận lợi của gây mê tĩnh mạch

Không cần những dụng cụ đặc biệt như gây mê hô hấp: máy gây mê, bình bốc hơi thuốc mê, bình chứa khí…

Không gây ô nhiễm môi trường, tránh cho những người hoạt động trong phòng mổ hít hơi mê độc hại. Không gây cháy nổ trong phòng mổ.

không thuận lợi của gây mê tĩnh mạch

Suy nhược hô hấp, tuần hoàn: Cần có những phương tiện để hỗ trợ hô hấp, nâng đỡ tuần hoàn.

Có thể gây quá liều thuốc tuyệt đối hay do sự nhạy cảm của bênh nhân.

Dị ứng với thuốc: nổi mẩn đỏ, mề đay, hen suyễn, sốt ác tính, sốc quá mẫn.

Gây mê tĩnh mạch chỉ dùng được cho những phẫu thuật ngắn, đơn giản …. Đối với những phẫu thuật phức tạp, kéo dài nên kết hợp với thuốc mê hô hấp, thuốc giãn cơ, đặt nội khí quản và hô hấp điều khiển.

Tài liệu tham khảo

Đoàn Phú Cương (2012), “Gây mê tĩnh mạch”, Giáo trình gây mê dùng cho đại học, Nhà xuất bản quân đội nhân dân  tr. 85-96.

Phan Thị Hồ Hải, Trương Thanh Hoàng (2004), “Gây mê tĩnh mạch”, Gây mê hồi sức, Nhà xuất bản y học chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, tr. 69-78.

Nguyễn Thị Kim Bích Liên (2002), “Gây mê toàn thân bằng đường tĩnh mạch”, Bài giảng gây mê hồi sức tập I, nhà xuất bản y học Hà Nội., tr. 605-610.

Nguyễn Thụ, Đào Văn Phan, Công Quyết Thắng (2002), Thuốc sử dụng trong gây mê, Nhà xuất bản y học Hà Nội.