SINH THIẾT TUYẾN GIÁP DƯỚI HƯỚNG DẪN CỦA SIÊU ÂM
đại cương
Các nốt tuyến giáp được phát hiện trên siêu âm lên tới 40%. Những bướu giáp có thể sờ thấy và các nốt phát hiện tình cờ khi thăm khám có tỉ lệ ác tính khoảng 10%. Những người bệnh có nhiều nốt thì nguy cơ ác tính khoảng 10%, trong số đó một phần ba gặp ở những nốt có kích thước nhỏ hơn. Sinh thiết nốt tuyến giáp là một thủ thuật tương đối an toàn và có thể thực hiện trên một người bệnh ngoại trú mà không cần dùng thuốc an thần. Các yếu tố dẫn đến chỉ định sinh thiết nốt tuyến giáp bao gồm kích thước nốt lớn hơn 10-15 mm, vi vôi hóa, đường kính trước sau lớn hơn đường kính dọc, u tiến triển, tăng sinh mạch.
Chỉ định và chống chỉ định
Chỉ định
Kích thước > 10 mm kèm theo vi vôi hóa.
Kích thước > 15 mm và tổ chức đặc và có vôi hóa dạng nốt
Kích thước > 20 mm hỗn hợp tổ chức đặc và dịch
Đường kính trước sau lớn hơn đường kính dọc.
Những khối u tiến triển.
Những nốt tăng sinh mạch.
Chống chỉ định
Không có chống chỉ định tuyệt đối.
Chuẩn bị
Người thực hiện
Bác sỹ chuyên khoa
Bác sỹ phụ
Điều dưỡng
Phương tiện
Máy siêu âm với các đầu dò chuyên dụng
Giấy in, máy in ảnh, hệ thống lưu trữ hình ảnh
Túi nylon vô trùng bọc đầu dò siêu âm.
Thuốc
Thuốc gây tê tại chỗ
Dung dịch sát khuẩn da, niêm mạc
Vật tư y tế thông thường
Bơm tiêm 5; 10ml
Nước cất hoặc nước muối sinh lý
Găng tay, áo, mũ, khẩu trang phẫu thuật
Bộ dụng cụ can thiệp vô trùng: dao, kéo, kẹp, 4 bát kim loại, khay quả đậu, khay đựng dụng cụ
Bông, gạc, băng dính phẫu thuật.
Hộp thuốc và dụng cụ cấp cứu tai biến thuốc đối quang.
Vật tư y tế đặc biệt
Kim chọc hút chuyên dụng
Kim sinh thiết chuyên dụng
Người bệnh
Người bệnh được giải thích kỹ về thủ thuật để phổi hợp với thầy thuốc.
Tại phòng can thiệp: người bệnh nằm, đặt đường truyền tĩnh mạch, lắp máy theo dõi nhịp thở, mạch, huyết áp, điện tâm đồ, SpO2.
Sát trùng da sau đó phủ khăn phủ vô khuẩn có lỗ.
Người bệnh quá kích thích, không nằm yên: cần cho thuốc an thần…
Phiếu xét nghiệm
Hồ sơ bệnh án điều trị nội trú
Có phiếu chỉ định thực hiện thủ thuật đã được thông qua
Phim ảnh chụp X quang, CLVT, CHT (nếu có).
Các bước tiến hành
Chọn vị trí đường vào đảm bảo nguyên tắc
Gần khối u nhất: Xác định bằng siêu âm
An toàn nhất: Xác định đường kim vào tránh các mạch máu đường mật mà siêu âm có thể xác định được.
Vị trí chọc kim: thường là vị trí trước ngoài do vùng giữa cổ nhạy với cảm giác đau.
Chọn đường vào
Bác sỹ siêu âm định vị thương tổn, xác định vị trí đường vào an toàn.
Sát khuẩn rộng vùng da tại vị trí chọc kim, trải săng lỗ.
Vô khuẩn đầu dò bằng cách bọc bao vô khuẩn, dùng gel vô khuẩn.
Tiêm dưới da 1% lidocain, sau đó tiêm 1% lidocain vào bao tuyến giáp. Không cần tiêm thuốc vào trong nhu mô tuyến giáp. Sau đó chờ 1 phút cho thuốc tê có hiệu lực.
Dùng dao phẫu thuật tạo một lỗ nhỏ trên da, dưới da đến lớp cơ tại vị trí đã đánh dấu.
Tiếp cận tổn thương
Chọc kim đồng trục, và siêu âm xác định mũi kim, điều chỉnh kim theo hướng vào nốt tuyến giáp đến bờ ngoài ổ bệnh lý thì dừng lại, rút phần lõi kim.
Cắt mảnh tổ chức
Kích hoạt súng sinh thiết, lồng vào phần nòng kim đồng trục. Sau đó đẩy phần lõi kim và lõi khuyết bên trong tiến vào trong ổ bệnh lý, tiếp theo đó, nòng ngoài cũng được kích hoạt tiến về phía trước để cắt và giữ lại cột mô bên trong lõm khuyết.
Rút kim lui, lắp lõi kim đồng trục để tránh chảy máu. Kích hoạt súng sinh thiết để lấy phần mô ra khỏi lõm khuyết. Tiến hành lấy tối thiểu 3 mảnh ở 3 hướng khác nhau.
Kết thúc thủ thuật
Sau khi lấy đủ số mẫu cần thiết. Tiến hành rút kim đồng trục, băng ép tại chỗ.
XỬ TRÍ mẫu bệnh phẩm
Bệnh phẩm chọc hút bằng kim nhỏ: cố định trên lam kính
Bệnh phẩm sinh thiết lõi: ngâm formalin
Nhận định kết quả
Cả hai phương pháp sinh thiết bằng kim nhỏ và sinh thiết lõi đều có hiệu quả như nhau trong sinh thiết nốt tuyến giáp. Tuy nhiên do nguy cơ biến chứng khi lấy sinh thiết lõi cao hơn nên thường chọc hút tế bào kim nhỏ được sử dụng trước. Khi không chuẩn đoán được sẽ sử dụng sinh thiết lõi.
Hiệu quả tổng hợp của hai phương pháp cho kết quả chuẩn đoán đến 85%.
Tai biến và xử trí
Sau khi tiến hành thủ thuật có thể xuất hiện khàn giọng do tác dụng của lidocain lên dây thần kinh quặt ngược thanh quản. Thường tình trạng này sẽ hết sau 2 giờ. Biến chứng khàn giọng kéo dài rất hiếm xảy ra và điều trị bằng cách phẫu thuật vùng đầu cổ.
Nếu người bệnh có biểu hiện khó thở hoặc khó nuốt thì chuyển ngay đến phòng cấp cứu gần nhất. Tuy nhiên tình trạng này cũng hiếm xảy ra.