Đại cương
Gây tê đám rối thần kinh cánh tay là kỹ thuật gây tê vùng được thực hiện bằng cách đưa thuốc tê hoặc hỗn hợp thuốc tê vào bao đám rối thần kinh cánh tay. Dựa vào đặc điểm về giải phẫu, đường đi và liên quan có một số đường đi chính để gây tê đám rối thần kinh cánh tay:
Đường giữa các cơ bậc thang.
Đường trên xương đòn.
Đường nách.
Đường dưới xương đòn.
Đường cạnh sống.
Chỉ định
Vô cảm để phẫu thuật ở chi trên, xương đòn.
Vô cảm để nắn sai khớp chi trên.
Giảm đau sau mổ chi trên.
Chống chỉ định
Người bệnh từ chối.
Dị ứng thuốc tê.
Viêm nhiễm vùng chọc kim gây tê.
Rối loạn đông máu nặng.
Không đủ phương tiện hồi sức.
Không thành thạo kĩ thuật.
Chuẩn bị
Người thực hiện kỹ thuật
Bác sĩ, điều dưỡng viên chuyên khoa gây mê hồi sức.
Phương tiện
Phương tiện cấp cứu và theo dõi.
Phương tiện hồi sức: nguồn oxy, bóng Ambu, mask, các phương tiện đặt nội khí quản, máy mê kèm thở, máy sốc điện, máy hút…
Thuốc hồi sức tuần hoàn: dịch truyền, thuốc: ephedrin, adrenalin…
Thuốc chống co giật: họ barbituric, benzodiazepin, giãn cơ, intralipid 10-20%…
Phương tiện theo dõi thường quy: điện tim, huyết áp, bão hòa oxy, nhịp thở…
Phương tiện, dụng cụ gây tê và thuốc tê.
Bơm kim tiêm các cỡ, găng tay, gạc vô trùng, pince, cồn sát trùng, khăn lỗ vô trùng…
Máy kích thích thần kinh ngoại vi, kim gây tê chuyên dụng, catheter (nếu cần gây tê kéo dài), máy siêu âm (nếu có).
Thuốc tê: lidocain, bupivacain, levobupivacain, ropivacain… pha trong dung dịch natriclorid 0,9%; có thể phối hợp với thuốc họ morphin (fentanyl, sulfentanil…) và hoặc adrenalin tỷ lệ 1/200.000. Tổng thể tích dung dịch thuốc khoảng 20 – 50 ml. Liều dùng các thuốc theo trọng lượng cơ thể, tình trạng của người bệnh; giảm liều đối với người > 60 tuổi, thiếu máu, có thai…
Chuẩn bị người bệnh
Thăm khám trước mổ, giải thích cho người bệnh cùng hợp tác khi gây tê.
Vệ sinh vùng gây tê.
Cho người bệnh an thần tối hôm trước mổ (nếu cần).
Kiểm tra hồ sơ bệnh án
Theo qui định của Bộ y tế.
Các bước tiến hành
Kiểm tra hồ sơ
Kiểm tra người bệnh
Thực hiện kỹ thuật
Kỹ thuật gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường giữa các cơ bậc thang.
Tư thế người bệnh: nằm ngửa, đầu quay sang bên đối diện, đặt một gối nhỏ dưới xương bả vai, tay để dọc theo thân người.
Mốc giải phẫu: khe hai cơ bậc thang trước và giữa; đường ngang qua mức sụn nhẫn.
Điểm chọc: là điểm giao cắt giữa đường thẳng đi qua sụn nhẫn và khe giữa các cơ bậc thang.
Hướng kim: đi từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ trước ra sau, tránh tĩnh mạch cảnh ngoài. Đẩy kim từ từ cho tới khi thấy dị cảm hoặc có phản ứng vận động của các nhóm cơ cánh tay, cẳng tay hoặc bàn tay; rút lui kim 1-2mm. Trước khi bơm thuốc phải tuân thủ nguyên tắc hút thử xem có máu và khí, nếu không có mới được bơm thuốc. Hút lại sau khi bơm mỗi 3-5ml thuốc tê.
Nếu có máy kích thích thần kinh cơ: mốc và hướng chọc kim như trên, khởi động máy với cường độ 1-2 mA, tần số 1 Hz; giảm dần cường độ để đạt được dấu hiệu co cơ ở các nhóm cơ tương ứng với dây thần kinh chi phối ở cường độ 0,3 – 0,5 mA. Thực hiện kỹ thuật bơm thuốc như trên.
Nếu sử dụng máy siêu âm định vị đám rối thần kinh: chọc kim dưới hướng dẫn của siêu âm và thực hiện bơm thuốc như trên.
Kỹ thuât gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường trên đòn.
Tư thế người bệnh: nằm ngửa, đầu quay sang bên đối diện, đặt một gối nhỏ dưới xương bả vai, tay để dọc theo thân người.
Mốc giải phẫu: điểm giữa bờ trên xương đòn, động mạch dưới đòn.
Điểm chọc: là giao điểm của đường song song trên xương đòn 1 cm và đường vuông góc với xương đòn, cách điểm giữa xương đòn 1 cm ở phía ngoài.
Hướng kim: đi từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ trước ra sau, tránh động mạch dưới đòn. Đẩy kim từ từ cho tới khi thấy dị cảm hoặc có phản ứng vận động của các nhóm cơ cánh tay, cẳng tay hoặc bàn tay; hoặc chạm xương sườn 1, rút lui kim 1-2mm. Trước khi bơm thuốc phải tuân thủ nguyên tắc hút thử xem có máu và khí, nếu không có mới được bơm thuốc. Hút lại sau khi bơm mỗi 3-5ml thuốc tê.
Nếu có máy kích thích thần kinh cơ: mốc và hướng chọc kim như trên, khởi động máy với cường độ 1-2 mA, tần số 1 Hz; giảm dần cường độ để đạt được dấu hiệu kích thích thần kinh với 0,3 – 0,5 mA. Thực hiện kỹ thuật bơm thuốc như trên.
Nếu sử dụng máy siêu âm định vị đám rối thần kinh: chọc kim dưới hướng dẫn của siêu âm và thực hiện bơm thuốc như trên.
Kỹ thuật gây tê qua đường nách.
Tư thế người bệnh: nằm ngửa, mặt quay sang bên đối diện, cánh tay dạng trên 900, cẳng tay gấp 900 so với cánh tay.
Mốc giải phẫu: động mạch nách.
Điểm chọc:
Kỹ thuật không xuyên mạch: tìm động mạch nách ở ngay phía trong cơ nhị đầu, phía trên chỗ bám của cơ ngực lớn vào cánh tay, dùng hai ngón tay đè giữ trên động mạch hoặc đẩy động mạch xuống dưới. Dùng kim số 23G chọc sát bờ trên động mạch ở vị trí đập rõ nhất, hướng kim đi lên dọc theo thành ngoài của nách và song song với trục cánh tay, có dấu hiệu mất sức cản khi đi vào bao thần kinh, hút bơm tiêm xem có máu hay không rồi từ từ bơm thuốc.
Kỹ thuật xuyên mạch: xác định động mạch nách như trên, dùng kim nhỏ 24G chọc xuyên qua động mạch nách, hút không ra máu, hút kiểm tra sau khi bơm mỗi 3-5 ml, bơm một nửa thể tích thuốc tê. Rút lui kim ra khỏi động mạch, bơm hết lượng thuốc tê còn lại (không khuyến khích thực hiện kỹ thuật này).
Nếu có máy kích thích thần kinh cơ: mốc và hướng chọc kim như trên, khởi động máy với cường độ 1-2 mA, tần số 1 Hz; giảm dần cường độ để đạt được dấu hiệu kích thích thần kinh với 0,3 – 0,5 mA. Thực hiện kỹ thuật bơm thuốc như trên.
Nếu sử dụng máy siêu âm định vị đám rối thần kinh: chọc kim dưới hướng dẫn của siêu âm và thực hiện bơm thuốc như trên.
Theo dõi
Các dấu hiệu sinh tồn: tri giác, nhịp tim, điện tim, huyết áp động mạch, độ bão hòa oxy mao mạch.
Mức độ phong bế cảm giác và vận động.
Các tác dụng không mong muốn của gây tê đám rối.
Tai biến và xử trí
Tai biến do thuốc và xử trí
Dị ứng, sốc phản vệ với thuốc tê: ít gặp với các thuốc tê thế hệ mới.
Xử trí: dừng sử dụng thuốc tê; sử dụng phác đồ chống sốc phản vệ theo Bộ y tế.
Ngộ độc thuốc tê: thường do quá liều, hoặc tiêm nhầm vào mạch máu.
Xử trí: dừng sử dụng thuốc tê, chống co giật, cấp cứu hồi sức hô hấp, tuần hoàn, truyền intralipid khi bị ngộ độc thuốc tê nhóm bupivacain và ropivacain.
Tai biến do kỹ thuật và xử trí
Bơm thuốc vào mạch máu.
Tiêm thuốc tê vào khoang dưới nhện hoặc khoang ngoài màng cứng vùng cổ.
Tràn khí màng phổi.
Phong bế hạch sao gây hội chứng Claude Bernard – Horner: co đồng tử, sụp mí mắt, giảm tiết mồ hôi.
Phong bế thần kinh quặt ngược gây liệt thanh quản tạm thời: nói khàn, nói yếu.
Phong bế thần kinh hoành: cảm giác nặng ngực, có thể khó thở, suy hô hấp.
Có thể gặp các biến chứng khác: nhiễm trùng, tụ máu nơi chọc, tổn thương dây thần kinh…
Gây tê thất bại phải chuyển phương pháp vô cảm..
Xử trí
Trường hợp tiêm thuốc vào khoang dưới nhện: cấp cứu hô hấp và tuần hoàn.
Tụ máu: băng ép nơi chọc kim.
Tràn khí khoang màng phổi: theo dõi; có thể chọc hút hoặc dẫn lưu khoang màng phổi.
Các trường hợp khác: hội chứng Claude Bernard – Horner, phong bế thần kinh quặt ngược, phong bế thần kinh hoành… theo dõi sát cho đến khi hết tác dụng của thuốc tê.