Tuyến nước bọt bao gồm các tuyến chính là tuyến mang tai, tuyến dưới hàm và tuyến dưới lưỡi, ngoài ra còn có các tuyến nước bọt phụ nằm rải rác trong niêm mạc miệng và niêm mạc vòm khẩu cái. Bệnh lý tuyến nước bọt hay gặp ở tuyến mang tai. Hai loại bệnh lý thường gặp nhất là là viêm và u tuyến nước bọt.
Viêm tuyến nước bọt
Viêm tuyến nước bọt có thể do virút, vi khuẩn, hay do nguyên nhân tự miễn; trong đó nhiễm virút quai bị (paramyxovirus) là nguyên nhân thường gặp nhất. Bệnh quai bị ở trẻ em có tổn thương giới hạn ở tuyến nước bọt; trái lại ở người trưởng thành thì có thể bị biến chứng viêm tụy và viêm tinh hoàn (dẫn đến vô sinh về sau).
Viêm tuyến nước bọt do virút quai bị
Hình thái tổn thương:
Đại thể: Paramyxovirus gây sưng to toàn bộ các tuyến chính, đặc biệt là tuyến mang tai.
Vi thể: Paramyxovirus thường gây viêm mô kẽ lan tỏa, phù và thấm nhập tế bào đơn nhân; đôi khi có các ổ hoại tử.
Viêm tuyến nước bọt do cơ chế tự miễn
Trong hội chứng Sjưgren thì hầu như luôn tấn công hai bên. Tất cả tuyến nước bọt (chính và phụ), tuyến lệ đều bị tổn thương, gây ra chứng khô miệng và khô mắt (viêm kết – giác mạc khô)
Hình 5: Viêm tuyến nước bọt mạn tính do tắc ống dẫn. Một số nang tuyến bị teo, mô đệm thấm nhập lymphô bào và tương bào.
Viêm tuyến nước bọt do vi khuẩn
Thường xảy ra thứ phát sau tắc ống tuyến do sỏi (Hình 5). Vi khuẩn gây bệnh thường gặp nhất là Staphylococcus aureus và Streptococcus viridans. Phản ứng viêm xảy ra trong mô kẽ, có thể gây hoại tử hóa mủ, hình thành ổ áp-xe.
U tuyến nước bọt
Dịch tễ học:
Nói chung, u tuyến nước bọt tương đối ít gặp, chiếm không quá 2% các loại u ở người. Tỉ lệ nam nữ mắc bệnh như nhau; xảy ra ở người lớn nhiều hơn trẻ em. U thường xuất hiện ở tuyến mang tai, chiếm 65-80% trường hợp, trong đó có khoảng 15% là ác tính; 10% u xảy ra ở tuyến dưới hàm trong đó có 40% là ác tính; số ít còn lại xuất hiện ở tuyến nước bọt dưới lưỡi và các tuyến nước bọt phụ nhưng quá nửa là u ác. Như vậy, tỉ lệ u ác tính của u tuyến nước bọt tỉ lệ nghịch với kích thước tuyến.
Dạng đại thể thường thấy là 1 khối u ở trước tai, thường di động khi sờ nắn, kích thước từ 4-6cm. Chỉ có thể chẩn đoán phân biệt lành ác một cách chắc chắn bằng khảo sát mô bệnh học. Hai loại u lành tuyến nước bọt thường gặp là u tuyến đa dạng và u Warthin. Loại u ác nguyên phát thường gặp nhất của tuyến nước bọt là carcinôm nhầy bì.
U tuyến đa dạng (pleomorphic adenoma, mixed tumor):
Còn gọi là u hỗn hợp, là u lành thường gặp ở tuyến mang tai.
Hình thái tổn thương:
Đại thể: u lành, phát triển chậm, kích thước
Vi thể: u được đặc trưng bởi sự đa dạng về thành phần cấu tạo. Thành phần biểu mô gồm các tế bào nhỏ hình tròn hoặc hình thoi, sắp xếp thành cấu trúc ống, túi, dây, đám đặc. Thành phần biểu mô hòa trộn với mô đệm dạng niêm, lỏng lẻo, đôi khi chứa các đảo dạng sụn hoặc xương. Bằng chứng hóa mô miễn dịch cho thấy tất cả các loại tế bào khác nhau này trong u đều xuất phát từ tế bào cơ biểu mô. (Hình 6)
Liên hệ lâm sàng: u phát triển chậm, không đau nên bệnh nhân thường để nhiều năm mới đi khám bệnh. U thường xuất phát từ thuỳ nông tuyến mang tai, tạo ra một khối phồng ở góc hàm sờ thấy dễ dàng. U có vỏ bao không hoàn toàn nên dễ tái phát nếu phẫu thuật cắt bỏ không đủ rộng. Khoảng 2-3 % các trường hợp tái phát hoá ác, gọi là carcinôm trên nền u tuyến hỗn hợp (carcinoma ex mixed tumors).
Hình 6 : U tuyến đa dạng tuyến nước bọt có giới hạn rõ (A). Cấu tạo vi thể gồm nhiều thành phần như các ống tuyến (1), mô đệm dạng niêm (2) (B).
U warthin
Là u lành, hầu như chỉ xuất hiện ở tuyến mang tai.
Hình thái tổn thương:
Đại thể: thường là khối nhỏ, tròn hay bầu dục, có vỏ bao, mặt cắt mầu trắng xám, thường có các khe hoặc bọc nhỏ chứa dịch nhầy hoặc dịch thanh.
Vi thể: có 2 hình ảnh đặc thù (Hình 7A):
Lớp biểu mô có 2 lớp tế bào ái toan lót trong các khoang bọc, phân nhánh.
Mô limphô bên dưới biểu mô rất phát triển, đôi khi tạo thành nang limphô.
Hình 7 : U Warthin: biểu mô 2 lớp (1),i mô limphô bên dưới tạo thành nang limphô với trung tâm mầm (2)(A) Carcinôm nhầy bì gồm các đám tế bào tiết nhầy (1) và tế bào gai (2) (B).
Carcinôm nhầy bì (mucoepidermoid carcinoma):
Là loại u ác nguyên phát tuyến nước bọt thường gặp nhất, thường xảy ra ở tuyến mang tai.
Hình thái tổn thương:
Đại thể: u có kích thước từ 1-8 cm, giới hạn rõ, chắc, di động kém, có thể gây đau nếu có xâm nhiễm thần kinh.
Vi thể: u không có vỏ bao, xâm nhập vào mô tuyến nước bọt xung quanh; mặt cắt trắng xám, thường có vài bọc nhỏ chứa chất nhầy. Cấu tạo của u gồm các tế bào gai và tế bào tiết nhầy, sắp xếp thành dải, bè hoặc bao quanh các bọc nhỏ (Hình 7B). Carcinôm nhầy bì được phân loại grad mô học thấp, vừa hay cao tùy theo tỉ lệ thành phần tế bào gai trong u, sự dị dạng tế bào, mức độ phân bào và hoại tử; grad mô học càng cao thì u có độ ác tính càng lớn, xâm nhập tại chỗ và cho di căn xa càng nhanh.