Định nghĩa
Cơn hen nặng là tình trạng nặng lên của các triệu chứng hen như khó thở, nặng ngực, thở rít với lưu lượng đỉnh giảm dưới 60% giá trị lý thuyết (GINA, 2006).
Chẩn đoán
Chẩn đoán xác định cơn hen phế quản
Hen phế quản được đặc trưng bởi các cơn khó thở kịch phát do co thắt phế quản. Cơn có thể tự hết một cách tự phát hoặc dưới tác dụng điều trị.
Dấu hiệu có trước thường là ngứa họng, ngứa mũi, ho thành cơn. Cơn hen thường xuất hiện nhanh, bệnh nhân khó thở, phải ngồi dậy, sử dụng nhiều cơ hô hấp phụ, tiếng thở cò cử, nghe phổi thấy ran rít lan toả khắp 2 phổi. Cơn có thể tự hết, nhưng thường hết khi dùng thuốc giãn phế quản. Cuối cơn khạc ra đờm trong, dính. Ngoài cơn hen phổi không có ran.
Chẩn đoán xác định hen phế quản dựa vào tiền sử (bản thân, gia đình), đặc điểm xuất hiện của cơn hen.
Bảng 14.1: Các yếu tố có nguy cơ dự báo cơn HPQ cấp nặng Có tiền sử bị các cơn hen nặng phải đặt nội khí quản hoặc thở máy. Có ít nhất 1 lần phải đi cấp cứu vì hen trong 1 năm gần đây. Dùng kéo dài hoặc ngừng dùng đột ngột glucocorticoid đường uống. Không điều trị kiểm soát hen bằng glucocorticoid dạng phun hít. Lệ thuộc thuốc cường β2 tác dụng nhanh, đặc biệt những người dùng nhiều hơn 1 bình xịt salbutamol/tháng. Hen nhạy cảm với aspirin và các thuốc chống viêm giảm đau không steroid. Có tràn khí màng phổi, xẹp phổi, viêm phổi trong cơn khó thở – Có tiền sử dị ứng thức ăn, đặc biệt là lạc. Phải dùng phối hợp ít nhất 3 nhóm thuốc chữa hen. Có các vấn đề về tâm thần hoặc đang phải dùng thuốc an thần. Tiền sử có bệnh lý tim phổi khác phối hợp hoặc dùng thuốc chẹn bêta. Tiền sử không tuân thủ điều trị, từ chối chẩn đoán và điều trị hen. Loạn thần, nghiện rượu hoặc đang phải dùng thuốc an thần. Sang chấn tâm lí hoặc các bất ổn về gia đình. Tiền sử nghiện thuốc lá. |
Chẩn đoán phân biệt
Đợt cấp của bptnmt
Tiền sử: có tiền sử VPQ mạn tính (ho, khạc đờm kéo dài), nghiện thuốc lào, thuốc lá.
Đặc điểm LS: đờm nhiều, đục, đờm càng nhiều khó thở càng nặng. Nghe phổi thường có giảm rì rào phế nang, ran ẩm, ran nổ.
X-quang phổi: thường có hình ảnh VPQ mạn tính hoặc giãn phế nang; trong cơn hen: thường có lồng ngực giãn căng, phổi tăng sáng.
Phân tích khí máu động mạch: thường có tăng HCO–3 kèm theo tăng PaCO2.
Tràn khí màng phổi
Đây là điều quan trọng nhất trong chẩn đoán phân biệt với cơn HPQ.
Khó thở, đau ngực thường xuất hiện đột ngột, trong khi đó, 80% các cơn hen cấp xuất hiện từ từ trong vòng 48 giờ.
Dấu hiệu của TKMP ở một bên phổi (mất rì rào phế nang, lồng ngực giãn căng, gõ trong).
Thường kèm theo tràn khí dưới da.
Chụp X-quang hoặc CT phổi trong trường hợp tràn khí ít sẽ khẳng định chẩn đoán.
Cơn hen tim
Thường xuất hiện khó thở đột ngột.
Có tiền sử mắc bệnh tim mạch hoặc cao huyết áp.
Có các triệu chứng của bệnh tim mạch (suy tim, cao huyết áp).
Nhồi máu phổi
Khó thở, đau ngực, ho khạc ra máu xuất hiện đột ngột.
Có yếu tố nguy cơ gây nhồi máu phổi (bất động kéo dài, bệnh lí đa hồng cầu).
Nghe phổi có ran ẩm, ran nổ. D-dimer thường tăng. Điện tâm đồ có thể thấy S1Q3.
XQ phổi có đám mờ khu trú hoặc xẹp phổi hình dải hoặc phổi quá sáng một vùng, bên.
MSCT phổi có tiêm thuốc cản quang sẽ khẳng định chẩn đoán khi thấy cục huyết khối.
Viêm phổi
Sốt, khạc đờm vàng, xanh.
Nghe phổi có ran ẩm, ran nổ.
XQ phổi có hình ảnh viêm phổi.
Dị vật đường thở
Bệnh sử sặc, hít phải dị vật.
Hội chứng xâm nhập sau khi hít dị vật: cơn ho dữ dội, ngạt thở cấp.
Không có tiền sử hen phế quản.
Đánh giá mức độ của cơn hen
Ngay khi bệnh nhân vào viện hoặc khi mới thăm khám bệnh nhân, phải xác định đây là cơn hen thường, cơn hen nặng hay cơn hen nguy kịch để lựa chọn cách xử trí đúng và tiên lượng bệnh.
Các dấu hiệu của cơn hen nặng
Khó thở liên tục không nằm được (phải ngồi ngả ra trước để thở).
Nghe phổi có nhiều ran rít hai phổi, cả khi hít vào và thở ra.
Nói từng từ (khó nói, khó ho).
Tình trạng tinh thần kích thích.
Vã mồ hôi.
Tím rõ.
Co kéo các cơ hô hấp phụ.
Thở nhanh trên 30 lần/phút.
Nhịp tim nhanh trên 120 nhịp/phút.
Huyết áp tăng bất thường hoặc xuất hiện dấu hiệu suy tim phải.
Mạch đảo trên 20 mmHg.
Khi có từ 4 dấu hiệu trở lên: chẩn đoán là cơn hen phế quản nặng.
Các dấu hiệu của cơn hen nguy kịch
Cơn ngừng thở hoặc thở chậm dưới 10 lần/phút.
Phổi im lặng (lồng ngực dãn căng, di động rất kém, nghe phổi: rì rào phế nang mất, không còn nghe thấy tiếng ran).
Nhịp tim chậm.
Huyết áp tụt.
Rối loạn ý thức.
Đôi khi có dấu hiệu thở nghịch thường ngực bụng luân phiên.
Bệnh nhân không nói được.
Khi cơn hen phế quản kèm theo một trong các dấu hiệu trên (cần lưu ý loại trừ tràn khí màng phổi): chẩn đoán là cơn hen phế quản nguy kịch.
Cần xử trí cấp cứu ban đầu và nhanh chóng gọi hỗ trợ của tuyến trên và phối hợp chuyển bệnh nhân lên tuyến y tế có điều kiện và khả năng điều trị cấp cứu bệnh nhân.
Bảng 14.2: Triệu chứng cơn hen nặng và nguy kịch theo GINA, 2011
|
Cơn hen nặng |
Cơn hen nguy kịch |
Mức độ khó thở |
Lúc nghỉ ngơi Phải ngồi ngả ra trước |
|
Nói |
Từng từ |
Không nói được |
ý thức |
Thường kích thích |
Ngủ gà hoặc lú lẫn |
Nhịp thở |
Thường > 30 lần/phút |
Thở chậm |
Co kéo cơ hô hấp phụ |
Thường xuyên |
Hô hấp nghịch thường |
Ran rít ran ngáy |
Nhiều ran |
Phổi im lặng |
Nhịp tim |
> 120 lần/phút |
Nhịp chậm |
Mạch đảo |
Thường có > 25 mmHg |
Không có, chứng tỏ có mệt cơ hô hấp |
% PEF sau liều giãn phế quản đầu tiên |
Không đo được |
|
PaO2 |
|
|
PaCO2
|
> 45 mm Hg Có thể có tím tái |
|
SpO2 |
|
Chú ý phát hiện và theo dõi sát bệnh nhân khi có hội chứng đe dọa:
+ Cơn hen nặng lên từ vài ngày nay.
+ Các cơn mau hơn trước.
+ Cơn hen nặng hơn trước.
+ Cơn hen kém đáp ứng với điều trị vẫn thường dùng.
+ Tăng nhu cầu dùng thuốc chữa hen.
+ Giảm dần lưu lượng đỉnh.
Diễn biến dự báo cơn hen nặng:
+ Cơn hen nặng lên nhanh chóng trong vài giờ.
+ Cơn hen đáp ứng kém với điều trị.
Các dấu hiệu của cơn HPQ không ổn định.
+ Các triệu chứng nặng dần lên.
+ Tăng liều và nhu cầu sử dụng thuốc cường β2.
+ Giảm hiệu quả với thuốc cường β2.
+ Giảm dần giá trị của lưu lượng đỉnh.
+ Tăng dần sự khác biệt của lưu lượng đỉnh giữa sáng và chiều.
Hen phế quản không ổn định có nguy cơ gây cơn hen cấp do đó cần thiết điều trị cơ bản: Corticoid (hít) + cường β2 (kéo dài).
Xử lý cấp cứu
Nguyên tắc chung:
Cơn hen phế quản nặng: Xử trí thuốc trước, thủ thuật sau.
Cơn hen phế quản nguy kịch: Tiến hành thủ thuật trước, xử trí thuốc sau.
Xử trí cơn hen phế quản nặng
Xử trí tại chỗ (tại nhà bệnh nhân, tại y tế cơ sở, trên đường vận chuyển)
- Thở oxy 40-60% nếu có. Nếu BN còn tỉnh, biên độ hô hấp tốt, có thể dùng:
Thuốc dùng ưu tiên hàng đầu là cường bêta-2 dạng hít.
+ Salbutamol bơm họng 2 nhát liên tiếp (khi hít vào sâu). Sau 10 phút chưa đỡ bơm tiếp 2 – 4 nhát nữa. Trong vòng 1 giờ đầu có thể bơm thêm 2 – 3 lần nữa (mỗi lần 2 – 4 nhát). Nên dùng buồng đệm (spacer) để tăng hiệu quả của thuốc.
+ Hoặc terbutalin bơm với liều như trên.
+ Hoặc fenoterol bơm 1 – 2 lần, mỗi lần 2 nhát cách nhau 20 phút.
+ Hoặc formoterol/budesonid turbuhaler 4,5/160 µg hít 2 nhát mỗi lần, nếu không đỡ có thể nhắc lại sau 10 phút, liều tối đa là 8 nhát hít.
+ Trong trường hợp có máy và thuốc khí dung: nên cho bệnh nhân khí dung luôn nếu sau 2 – 3 lần xịt không có kết quả.
+ Nếu dùng thuốc cường bêta-2 không đỡ, nên phối hợp thêm thuốc kháng cholinergic: ipratropium bơm họng 2 nhát.
Có thể dùng các chế phẩm phối hợp sẵn 2 nhóm thuốc trên: fenoterol + ipratropium xịt mỗi lần 2 phát, 10 phút/lần; hoặc salbutamol + ipratropium xịt với liều trên.
Nếu tình trạng khó thở không giảm: Chuyển nhanh đến bệnh viện, trên đường vận chuyển dùng thêm:
+ Salbutamol hoặc terbutalin xịt 8 – 12 nhát liên tục vào buồng đệm cho bệnh nhân hít thở.
+ Terbutalin hoặc salbutamol (ống 0,5 mg) tiêm dưới da 1 ống.
+ Corticoid đường toàn thân:
° Prednisolon 40-60 mg uống.
° Hoặc hydrocortison 100 mg tiêm tĩnh mạch.
° Hoặc methylprenisolon 40 mg tiêm tĩnh mạch.
- Có thể dùng một số thuốc khác trong trường hợp không có sẵn hoặc không đáp ứng các thuốc nói trên:
Aminophyllin 5 mg/kg cân nặng cơ thể tiêm tĩnh mạch chậm trong 20 phút.
Adrenalin 0,3 mg tiêm dưới da. Nếu cơn không giảm có thể nhắc lại sau 20 phút với cùng liều trên. Không nên tiêm dưới da quá 3 lần, nên thay đổi vị trí tiêm để tránh hoại tử tại nơi tiêm.
Xử trí tại bệnh viện:
Cần rất khẩn trương:
- Thở oxy mũi 4-8 lít/phút.
- Thuốc giãn phế quản:
Salbutamol hoặc terbutalin dung dịch khí dung 5 mg: Khí dung qua mặt nạ 20 phút/lần, có thể khí dung đến 3 lần liên tiếp nếu sau khi khí dung 1 lần chưa có hiệu quả.
Đánh giá lại tình trạng bệnh nhân sau 3 lần khí dung:
+ Nếu hết hoặc đỡ khó thở nhiều: khí dung nhắc lại 4 giờ/lần, kết hợp thêm thuốc giãn phế quản đường uống.
+ Nếu không đỡ khó thở: kết hợp khí dung với truyền tĩnh mạch:
° Terbutalin ống 0,5 mg, pha trong dung dịch natri chlorua 0,9% hoặc glucose 5% truyền tĩnh mạch (bằng bơm tiêm điện hoặc máy truyền dịch – nếu có), tốc độ truyền khởi đầu 0,5 mg/giờ (0,1 – 0,2 àg/kg/phút), tăng dần tốc độ truyền 15 phút /lần đến khi có hiệu quả (có thể tăng liều đến 4 mg/giờ).
° Hoặc: salbutamol truyền tĩnh mạch (với liều tương tự terbutalin) hoặc tiêm dưới da 0,5 mg mỗi 4-6 giờ.
+ Nếu không có salbutamol hoặc terbutalin dạng khí dung, có thể dùng salbutamol dạng bình xịt định liều:
° Xịt họng 2 nhát liên tiếp (đồng thời hít vào sâu).
° Nếu sau 10 phút không đỡ khó thở: xịt họng tiếp 2-4 nhát. Trong vòng 1 giờ đầu có thể xịt thêm 2-3 lần (mỗi lần 2-4 nhát) nếu còn khó thở.
+ Nếu không có sẵn hoặc không đáp ứng với salbutamol và terbutalin, có thể dùng các thuốc giãn phế quản khác:
° Adrenalin: (một chỉ định rất tốt của adrenalin là cơn hen phế quản có truỵ mạch): Tiêm dưới da 0,3 mg. Nếu không đỡ khó thở, có thể tiêm dưới da nhắc lại 0,3 mg/mỗi 20 phút, nhưng không nên tiêm quá 3 lần.
Lưu ý: không nên dùng adrenalin ở bệnh nhân già, có tiền sử bệnh tim hoặc bệnh mạch vành, tăng huyết áp.
° Aminophyllin: nếu bệnh nhân không dùng theophylin hoặc các thuốc có dẫn chất xanthin trước đó.
⋅ Tiêm tĩnh mạch chậm: 5 mg/kg cân nặng cơ thể, tiêm chậm trong 20 phút. Sau đó, truyền tĩnh mạch liên tục 0,6 mg/kg/giờ (không quá 10 mg/kg/24 giờ).
⋅ Nên dùng phối hợp với các thuốc cường β2 (salbutamol…).
⋅ Chú ý: dễ có nguy cơ ngộ độc (buồn nôn, nôn, nhịp tim nhanh, co giật) nếu dùng liều quá cao, đặc biệt ở nguời già, suy gan hoặc đã dùng theophyllin trước khi đến viện vì khoảng cách giữa liều điều trị và liều độc gần nhau.
° Magnesium sulphat: tiêm tĩnh mạch 2 g.
- Corticoid:
Khi bệnh nhân đã ra khỏi cơn hen nặng: giảm liều dần trước khi dừng thuốc. Kết hợp với corticoid tại chỗ (xịt hoặc khí dung qua máy).
- Các biện pháp phối hợp:
Cho bệnh nhân đủ nước qua đường ăn uống và truyền (tổng lượng nước: 2 – 3 lít/ngày nếu không có bệnh tim mạch như suy tim, tăng huyết áp).
Kháng sinh: chỉ cho nếu có biểu hiện nhiễm khuẩn. Cần hỏi kỹ tiền sử dị ứng thuốc. Không nên dùng penicillin (dễ gây dị ứng), các thuốc nhóm macrolid và quinolon (làm tăng tác dụng phụ của aminophyllin).
Nếu cơn hen không đỡ nhanh sau khi cấp cứu 30-60 phút, nhanh chóng chuyển bệnh nhân lên tuyến trên.
Chú ý: đảm bảo điều trị, chuẩn bị sẵn thuốc và phương tiện cấp cứu tối thiểu trong quá trình vận chuyển bệnh nhân:
+ Thở ô xy.
+ Thuốc giãn phế quản.
+ Đặt đường truyền tĩnh mạch.
+ Bóng ambu và mặt nạ – ống nội khí quản và bộ đặt nội khí quản (nếu có).
- Những phương pháp điều trị không nên dùng trong cơn hen nặng:
+ Thuốc an thần.
+ Thuốc làm loãng đờm.
+ Vỗ rung.
+ Bù dịch số lượng lớn.
+ Dùng kháng sinh bao vây.
Xử trí cơn hen phế quản nguy kịch:
Can thiệp đường thở trước, thuốc sau.
- Bóp bóng qua mặt nạ với oxy 10-12 lít/phút.
- Nhanh chóng tiến hành đặt ống nội khí quản và bóp bóng qua nội khí quản.
- Nếu không đặt được nội khí quản, hoặc bệnh nhân biểu hiện ngạt thở, tiến hành mở khí quản cấp cứu.
- Các thuốc sử dụng trong cơn hen phế quản nguy kịch.
Adrenalin
+ Tiêm tĩnh mạch 0,3 mg, tiêm nhắc lại sau 5 phút nếu chưa đạt được hiệu quả giãn phế quản hay huyết áp tụt.
+ Sau đó truyền adrenalin tĩnh mạch liên tục với liều bắt đầu 0,2 – 0,3 àg/kg/phút, điều chỉnh liều thuốc theo đáp ứng của bệnh nhân (mức độ co thắt phế quản, nhịp tim và huyết áp).
+ Chống chỉ định dùng adrenalin trên những bệnh nhân có suy tim, bệnh mạch vành, huyết áp cao, loạn nhịp tim…
Salbutamol hoặc terbutanyl hoặc aminophyllin dùng đường tĩnh mạch với liều như đối với cơn hen phế quản nặng.
Methylprednisolon (ống 40 mg) hoặc hydrocortison (ống 100 mg) tiêm tĩnh mạch 3 – 4 giờ/ống.
Điều trị phối hợp (kháng sinh, truyền dịch…) tương tự cơn hen nặng.
- Gọi ngay đội cấp cứu ngoại viện của tuyến cấp cứu cao hơn.
- Sau khi đã đặt được ống nội khí quản và truyền tĩnh mạch thuốc giãn phế quản, chuyển bệnh nhân bằng xe cứu thương tới khoa Hồi sức cấp cứu để điều trị chuyên khoa.
Tài liệu tham khảo
Vũ Văn Đính (1994), “Cơn hen phế quản ác tính”. Hồi sức cấp cứu. Nhà xuất bản Y học.
Đặng Quốc Tuấn (2001), “Chẩn đoán và xử trí cơn hen phế quản cấp”.
Hồi sức cấp cứu, tập II, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr.127-135.
Aldington S., Beasley R. (2007), “Assessment and management of severe asthma in adults in hospital”, Thorax, 62; pp.447-458.
British Thoracic Society (2005), “British Guideline on the Management of Asthma”.
GINA Executive and Science Committees (2012), “Global Strategy for Asthma Management and Prevention”.
McFadden E.R. (2003), “Acute Severe Asthma”, American Journal of Respiratory and Critical Care Medicine, 168; pp.740-759.