Nội dung

Rối loạn giấc ngủ

Đại cương về giấc ngủ.

Khái niệm:

Giấc ngủ là một  trạng  thái  sinh lí  bình thường của con người.  Giấc  ngủ  –  đó là trạng thái chung, kéo dài của cơ thể, được  gây ra do  sự tổ  chức  lại  hoạt  động của phức hợp các yếu tố nội sinh và ngoại  sinh đặc  trưng cho  những  dao  động  ngày – đêm và đảm bảo sự phục hồi chức  năng  hoạt  động của não  bộ  trong trạng thái thức tỉnh.

Giấc ngủ là điều hoà, lặp đi lặp  lại,  trung  bình, mỗi  người  cần đến 220.000 giờ để ngủ trong suốt cuộc đời.

Vai trò của giấc ngủ:

Người bình thường cần được  ngủ  khoảng  7,5  giờ  mỗi  đêm. Tuy  nhiên cũng  có người có nhu  cầu ngủ  nhiều hơn  và  cũng  có  người cần ít hơn. Mất ngủ kéo dài có thể dẫn đến rối loạn hành vi, ảo  giác  và  hoang  tưởng. Các  nghiên cứu chỉ  ra rằng: mất ngủ gây ra mệt mỏi, chán ăn, giảm  khả  năng  học  tập,  giảm  cân  nặng, giảm thân nhiệt và có thể chết.

Sinh lí giấc ngủ:

Khái niệm về nhịp thức – ngủ:

Giấc ngủ bị ảnh hưởng bởi nhịp sinh học. Trong 24  giờ, người  lớn ngủ  1  lần,  đôi khi 2 lần. Trẻ sơ sinh chưa có nhịp thức –  ngủ,  nhịp này sẽ xuất  hiện và  phát  triển trong 2 năm đầu của đời sống.

Ở phụ nữ, nhịp ngủ thay đổi trong chu kỳ kinh nguyệt.

Các giai đoạn của giấc ngủ:

Giấc ngủ được chia làm 2 giai đoạn sinh lí: không vận động nhãn cầu nhanh (NREM) và vận động nhãn cầu nhanh (REM). NREM có  5  giai  đoạn.  Trái  lại, trong giai đoạn ngủ REM (chiếm  22% tổng thời  gian  ngủ)  hoạt  động của não  và các chức năng sinh lí  giống với  lúc  thức. Khoảng 90  phút  sau khi  bắt đầu ngủ, sẽ có giai đoạn ngủ REM đầu tiên.

Trong giấc ngủ NREM, nhịp tim đều đặn hơn  và  giảm từ 5  – 10 lần/phút, nhịp thở chậm hơn, huyết áp có  chiều hướng  hạ,  trương lực  cơ  giảm.  Trong  một  số giấc ngủ REM có cương cứng dương vật, dòng máu đến các  tổ  chức  bao  gồm cả não giảm nhẹ so với lúc thức, nhịp tim, nhịp thở, huyết áp đều cao hơn so với  giai đoạn ngủ NREM.

Những người được đánh thức dậy  ở  giai  đoạn  ngủ  REM  thường  nói  họ  có giấc mơ. Trong đêm, giai  đoạn ngủ  REM  chiếm  tổng cộng từ 90  – 100 phút. Chu kỳ của giấc ngủ là đều đặn.

Trình tự của các pha ngủ  1, 2, 3, 4, 5  và  ngủ  REM  hình  thành  chu kỳ  ngủ.  Mỗi chu kỳ ngủ kéo dài chừng 1,5 giờ, do đó trong đêm có đến 4 – 5 chu kỳ ngủ.

Rối loạn giấc ngủ.

Mất ngủ tiên phát:

Đặc điểm lâm sàng:

Mất ngủ tiên phát xảy ra độc lập với bất kỳ rối loạn cơ thể hoặc tâm thần nào. Bệnh nhân tăng hoạt động vào  ban  đêm  và  ít  ngủ.  Cảm  giác  vui  vẻ  hoặc  u  sầu quá mức làm bệnh nhân mất ngủ.

Đặc điểm nhấn mạnh rối loạn  giấc  ngủ  tiên  phát  là  khó  ngủ  hoặc  khó  giữ giấc ngủ kéo dài ít nhất một  tháng.  Mất  ngủ  là  nguyên  nhân  gây  khó  chịu  cho bệnh nhân, tổn thương đến các hoạt động nghề  nghiệp,  xã  hội và  các chức năng quan trọng khác.

Theo DSM IV, trong một năm, có  đến 30%  –  40%  số  người  lớn than phiền mất ngủ, khoảng 15% – 25% số người có mất ngủ tiên phát mãn tính.

Hầu hết các trường hợp mất ngủ tiên phát xuất hiện đột ngột sau khi  có yếu tố tâm lí, xã hội hoặc stress. Mất ngủ tiên phát thường bền vững  sau khi các nguyên  nhân gây mất ngủ đã được giải quyết. Mất ngủ tiên phát thường kéo dài vài tháng  nhưng cũng có khi kéo dài hàng năm.

Điều trị:

Mất ngủ tiên phát có thể hết khi  thay đổi  giường ngủ hoặc phòng ngủ. Khi có căng thẳng tâm lí hoặc tăng trương lực  cơ,  bênh  nhân  cần  phải  được  thư  giãn. Liệu pháp tâm lí giúp được ít nhiều cho mất ngủ tiên phát.

Mất ngủ tiên phát được điều trị phổ biến bằng benzodiazepine.  Thuốc  có thời gian bán hủy ngắn có lợi khi sử dụng điều trị mất ngủ.

Hiện nay do sự xuất hiện của bezodiazepine, người ta ít sử dụng thuốc ngủ barbituric. Cả barbituric và bezodiazepine dùng kéo  dài  đều gây  ra hội  chứng cai khi ngừng sử dụng thuốc.

Các thuốc chống trầm cảm an dịu như doxepin, trazodone, trimipramin và amitriptilin thường được sử dụng trong điều trị mất ngủ  khi  dùng liều thấp như là một thuốc ngủ.

Ngủ nhiều tiên phát:

Đặc điểm lâm sàng:

Ngủ nhiều tiên phát được chẩn đoán khi không tìm ra nguyên  nhân  gây  ngủ nhiều, kéo dài trong ít nhất một tháng.  Ngủ  quá nhiều phải  đủ nặng để gây ra các triệu chứng khó chịu, ảnh hưởng đến các chức năng nghề  nghiệp,  xã  hội  và  các chức năng quan trọng khác. Bệnh nhân  thường  ngủ  8  –  12  giờ  mỗi  ngày  và thường khó thức dậy vào buổi sáng. Chất lượng của giấc ngủ  ban  đêm  là  bình thường.

Đặc điểm nhấn mạnh ngủ nhiều tiên phát là kéo dài thời gian  ngủ  trong ngày, diễn ra hầu như  hàng  ngày.  Theo  DSM  –  IV,  tỉ  lệ  ngủ  nhiều  ở  Mỹ  là  khoảng 5% – 10% số người có rối loạn giấc  ngủ gặp trong lâm sàng. Trong nhân dân,  tỉ lệ ngủ nhiều là 0,5% – 5% người lớn.

Ngủ nhiều thường bắt đầu ở  tuổi  từ 15  –  30; tiến triển mạn tính và  bền vững nếu không được điều trị.

Điều trị:

Điều trị ngủ nhiều bằng dùng thuốc kích thích vào buổi sáng như amphetamin. Thuốc chống trầm cảm ức chế serotonin có thể cho kết  quả  trong một số trường hợp.

Ngủ lịm:

Đặc điểm lâm sàng:

Ngủ lịm là cơn buồn ngủ kịch phát và  ngủ  quá  nhiều trong ngày  và  có biểu  hiện ngủ REM không bình thường, kéo dài ít nhất  trong  3  tháng.  Xuất  hiện ngủ REM chỉ 10 phút sau khi ngủ. Bệnh nhân không thể nào cưỡng được giấc  ngủ.  Thường phối hợp với mất trương lực cơ đột ngột như khụy  gối,  gục  đầu.  Triệu chứng ít phổ biến hơn là liệt, bệnh nhân tỉnh táo nhưng không  thể  vận  động  cơ được.

Khoảng 20% – 40% số bệnh nhân  có  trải qua ảo  giác  trước khi  rơi vào  giấc  ngủ (ảo giác lúc dở thức  dở  ngủ)  thường là ảo  thanh.  Khoảng 40% số  bệnh nhân ngủ lịm có tiền sử một bệnh rối loạn tâm thần khác nhất là trầm cảm chủ yếu.

Tỉ lệ của ngủ lịm là 0,02% – 0,16% ở người  lớn, giống nhau  giữa nam  và nữ. Ngủ lịm thường khởi phát trước tuổi 30, tiến  triển  bền  vững  theo  thời  gian  và được cải thiện khi điều trị.

Điều trị:

Thường bệnh nhân được yêu cầu đi ngủ mà không cần dùng thuốc. Khi  cần,  thuốc kích thích có thể được sử dụng.

Rối loạn giấc ngủ liên quan đến hô hấp:

Rối loạn hô hấp có thể dẫn đến ngủ ít, ngủ nhiều hoặc ngủ ngáy do  rối loạn  thông khí xảy ra trong ngủ.

Ngủ nhiều là than phiền phổ biến  trong  rối  loạn  giấc  ngủ  liên quan  đến hô hấp. Ngủ nhiều biểu hiện rõ ràng hơn trong các tình huống thư  giãn như đọc báo, xem ti vi, mit tinh, xem phim, xem hát  hoặc  nghe  hoà nhạc. Bệnh nhân có thể rơi  vào giấc ngủ cả khi đang hoạt động, đang ăn, lái xe, hoặc đang đi.

Mất ngủ ít phổ biến hơn, bệnh nhân  hay  thức  giấc, không thấy thoải mái  sau giấc ngủ. Một số người than phiền là khó thở khi nằm hoặc khi ngủ.

Ngủ ngáy là phổ biến trong rối loạn giấc  ngủ  liên  quan  đến  hô  hấp,  chúng được đặc trưng bởi sự lặp lại tiếng ngáy trong khi ngủ. Ngáy là một đặc  trưng ở người lớn có rối loạn cấu trúc đường hô hấp, thể tạng béo.

Tỉ lệ rối loạn giấc  ngủ  liên quan  đến hô  hấp  là 1%  – 10% ở người lớn, nhưng có thể cao hơn ở người cao tuổi.

Rối loạn giấc ngủ liên quan đến hô hấp có  khởi  phát  từ  từ,  tiến triển vững  chắc và mãn tính, dẫn đến chết sớm vì các bệnh tim mạch và hô hấp.

Rối loạn nhịp ngủ hàng ngày:

Rối loạn nhịp ngủ hàng ngày là mất phù  hợp giữa muốn ngủ  và  thời  gian ngủ thực tế. Bệnh nhân than phiền rằng họ mất ngủ lúc muốn ngủ nhưng lại ngủ nhiều vào lúc khác gây ảnh hưởng đến các chức năng nghề nghiệp, xã hội  và  các  chức năng quan trọng khác.

Rối loạn này có thể là nội sinh hoặc có nguồn gốc thực tổn, phụ thuộc vào sự tham gia tương đối của yếu tố tâm lí hoặc yếu tố thực tổn. Những cá nhân có rối  loạn nhịp thức ngủ, thường kết hợp với rối loạn nhân cách và rối loạn cảm xúc.

Theo DSM – IV có 4 loại rối loạn:

Loại pha ngủ đến chậm là ngủ và thức đến chậm hơn ý  muốn. Bệnh nhân thường than phiền là khó vào giấc ngủ vào thời  điểm  mong  muốn.  Ngủ  nhiều thường xảy ra sau mất ngủ trước đó. Điều trị bằng  bezodizepam có  thời  gian bán  hủy ngắn như triazolam. Có thể sử dụng liệu pháp ánh sáng.

Loại đi máy bay: loại này thường mất sau 2-7  ngày  phụ  thuộc vào  độ dài đông- tây của hành trình và sự đáp ứng của mỗi người.

Loại thay đổi công việc: loại này xảy  ra ở  người  thay  đổi nhanh lịch làm  việc. Triệu chứng thường là một  giai  đoạn  pha  trộn giữa  mất  ngủ  và  ngủ  nhiều, có thể có triệu chứng cơ thể phối hợp.

Loại không biệt định.

Vệ sinh giấc ngủ:

Cố gắng duy trì đều thời gian ngủ và thức cả trong các ngày nghỉ.

Không nằm trên giường xem tivi, đọc báo hoặc  làm  việc.  Nếu  chưa  ngủ được sau khi đi nằm một thời gian, nên rời khỏi giường cho đến khi buồn ngủ.

Tập thể dục 3 – 4 lần trong tuần nhưng tránh tập vào buổi chiều.

Ngừng hoặc giảm sử dụng rượu,  càphê,  thuốc  lá và  các  chất  khác  cản trở giấc ngủ.

Đặt giường ngủ ở nơi thoáng mát, yên tĩnh và làm  các  động tác  thư  giãn  trước khi đi ngủ.

Giữ môi trường thoáng mát, yên tĩnh khi ngủ.

Cận giấc ngủ.

Ác mộng:

Ác mộng đặc trưng bởi giấc mơ dài gây hoảng  sợ,  bệnh nhân tỉnh dậy trong hoảng hốt. Ác mộng thường xảy ra trong giai đoạn ngủ  REM.  Khoảng  50%  số người lớn thường có ác mộng. Tỉ lệ  nữ nhiều hơn nam  từ 2  –  4  lần. Khoảng một  nửa số trường hợp,  ác  mộng phối  hợp  với  các  bệnh  tâm  thần  khác  như  rối loạn lo âu, tâm thần phân liệt, rối loạn stress sau sang chấn và trầm cảm. Bệnh nhân khi tỉnh dậy, hoàn toàn tỉnh táo và có thể nhớ  từng chi  tiết của giấc mơ. Rối loạn  thần kinh  thực vật  thường  có  nhưng  không  mạnh  mẽ  và  nhanh  chóng  trở  về  bình thường.

Thường bệnh nhân không cần điều trị gì. Thuốc chống trầm cảm 3 vòng hoặc benzodiazepin có thể làm giảm ác mộng.

Hoảng hốt khi ngủ:

Hoảng hốt khi ngủ xảy ra trong giai  đoạn 3  và  4 của giấc  ngủ NREM. Bệnh  nhân hốt hoảng và lo âu kịch phát. Bệnh  nhân  kêu  thất  thanh,  đôi  khi  tỉnh  giấc ngay lập tức với cảm giác hoảng sợ mạnh. Bệnh  nhân  thường  ngủ  tiếp  hoặc  có miên hành và quên trong cơn.

Hốt hoảng trong khi ngủ thường bắt đầu ở trẻ 4  –  12 tuổi và  tự hết ở tuổi vị thành niên. Ở người lớn, khởi phát phổ biến nhất ở lứa tuổi  20  –  30  và  tiến triển mãn tính. Cơn hốt hoảng thường  xảy  ra  một  lần  sau  vài  ngày hoặc  vài  tuần,  nhưng cũng có thể  xảy  ra hàng  đêm. Cần  tìm  hiểu các  stress  trong gia đình và  loại bỏ chúng. Đôi khi cần dùng seduxen liều nhỏ.

Miên hành:

Miên hành xảy ra ở giai đoạn 3 và 4 của giấc ngủ NREM. Bệnh nhân đi trong trạng thái vắng ý thức hoàn  toàn:  ngồi  dậy,  đi  lại, mặc  quần  áo, nói, la hét  thậm chí lái xe. Các hành vi thường kết thúc  khi  bệnh  nhân  thức  dậy  sau vài  phút  rối loạn ý thức. Hay gặp hơn, bệnh nhân quay lại giường và ngủ tiếp.

Miên hành thường bắt đầu ở 1/3  đầu  của  đêm. Nếu tỉnh dậy  trong giai  đoạn này (hoặc sáng hôm sau), bệnh nhân chỉ nhớ lại một  số  chi  tiết hạn  chế những gì xảy ra trong giai đoạn.

Tỉ lệ miên hành ở trẻ em là 10% – 30%, tỉ lệ  này ở người  lớn là 1%-7%; đỉnh cao xảy ra ở tuổi 12. Miên hành ở trẻ em thường tự hết khi đến tuổi vị thành niên.

Các rối loạn giấc ngủ khác.

Rối loạn giấc ngủ do một bệnh:

Bệnh thực tổn có thể là nguyên nhân của mọi loại rối loạn giấc  ngủ (mất ngủ,  ngủ nhiều, cận giấc ngủ và phối  hợp). Hầu hết  các  bệnh thực  tổn gây đau và khó chịu có thể gây ra mất ngủ.

Mất ngủ là triệu chứng hay gặp trong bệnh  trầm  cảm,  TTPL,  rối  loạn  nhân cách thể ranh giới, rối loạn ăn  uống,  rối  loạn lo  âu, rối loạn stress sau sang chấn, rối loạn ám ảnh – xung động và rối loạn hoảng sợ.

Rối loạn giấc ngủ do một chất:

Rượu làm tăng giấc ngủ, nhưng nhìn chung sử dụng rượu làm  chất  lượng giấc ngủ nghèo nàn đi, đặc trưng bởi hay thức giấc, dậy sớm.

Phụ thuộc rượu thường phối hợp với  mất  ngủ mãn tính thậm chí  cả khi  bệnh nhân uống rượu trước khi đi ngủ.  Sử  dụng  rượu kéo  dài  làm  cho  giấc  ngủ ngắn  lại, bị gián đoạn nhiều lần. Trong trường hợp lạm  dụng  rượu nặng có thể  gây ra nhiều pha thức – ngủ xảy ra trong ngày.

Thuốc benzodiazepin hoặc thuốc chống trầm cảm an dịu liều thấp có thể giúp bệnh nhân ngủ được.

Ngủ nhiều gặp trong trạng thái cai: amphetamin, cafein,  cocain. Các  chất ức  chế thần kinh trung ương như rượu có thể gây ra ngủ  nhiều.  Mất  ngủ  gặp trong  trạng thái cai thuốc an thần gây ngủ  như  barbituric,  bezodiazepin.  Sử   dụng morphin và các dẫn xuất khác  có thể  làm giảm tổng số  thời  gian ngủ,  ngủ không  sâu và giấc ngủ REM. Theo thời gian  khi  khả  năng  dung nạp tăng,  mất  ngủ cũng biến mất. Trạng thái cai thường phối hợp với mất ngủ cấp. Tuy nhiên, methadone không ảnh hưởng xấu đến giấc ngủ.

Người ta chưa biết nhiều về ảnh hưởng của nicotin đến giấc  ngủ.  Tuy  nhiên  triệu chứng rối loạn giấc ngủ là nhẹ so với trạng thái cai các chất khác.

Có sự khác biệt lớn về ảnh hưởng  của  cafein  đến  giấc  ngủ  ở  những  người khác nhau. Ngộ độc cafein thường phối  hợp với  mất  ngủ.  Cafein có  thể  gây  bùng nổ cơn hoảng sợ mà hậu quả  là  mất  ngủ.  Trạng thái  cai  cấp cafein có thể  gây ra ngủ nhiều. Điều kỳ lạ là cafein lại gây buồn ngủ ở người già.