Nội dung

Tâm thần học trẻ em

Khái niệm.

Nhiều trạng thái rối loạn tâm thần đã được  hình thành  và  phát  triển ở  trẻ  nhỏ  và tuổi vị thành niên. Những  trạng  thái  này  liên quan  mật  thiết  với  sự hình thành bộ não và thể chất đứa trẻ cũng như các  hoàn  cảnh  sống  trong  gia  đình từ  bé. Cũng rất nhiều rối loạn đặc biệt là các  phản  ứng  về  mặt  cảm  xúc,  hành  vi  của bệnh nhi có liên quan tới các sự kiện xảy ra như: đi học, thay đổi trường lớp, thầy cô, bị trêu ghẹo, bị hù dọa, ngược đãi, căng thẳng trong kỳ thi hoặc hoàn cảnh gia đình bị xáo trộn (cha mẹ ốm đau, li dị…).

Tỉ lệ mắc các rối loạn tâm thần ở trẻ  em không có tài liệu nào nêu số liệu cụ  thể, mà tùy theo từng hoàn cảnh, môi trường, kinh tế xã hội của mỗi  nước và tùy  quan điểm, phương pháp đánh giá.

Những rối loạn tâm thần ở trẻ em trước 6 tuổi.

Sự phát triển cơ thể, ngôn ngữ, vận  động và  tính cách của trẻ  ở  lứa tuổi  này diễn ra nhanh chóng. Khi được 8 tuần bé đã có  thể  thể  hiện nụ cười  trên môi  và ánh mắt, vào khoảng 6 tháng tuổi bé  có  thể  đáp ứng  những  cử chỉ  tình cảm  âu  yếm của mẹ và các thành viên khác trong nhà. Lúc  này em bé  cũng có thể đã cảm thấy buồn khi bị đói, ốm đau hay bị tách rời mẹ.

Từ nhỏ, trẻ đã thể hiện sự khác biệt về tính cách. Một số em có tính cách bình  thường trong thói quen còn gọi là “dễ  tính”,  một số  lại  thể  hiện cá tính kém ăn, mất ngủ, hay khóc, khó nuôi “khó tính”.

Những rối loạn trong 5 năm đầu thường thể hiện qua sự quan  hệ  với  người  chăm sóc, rối loạn sự  phát  triển.  Ví  dụ:  sự không  phù  hợp  về  tính cách của đứa trẻ với người chăm sóc có thể  tạo  nên tương tác  xấu,  luẩn quẩn,  do  vậy  làm tăng  sự căng thẳng của mối quan hệ.

Các đứa trẻ chậm  phát  triển tâm  thần  (CPTTT)  thường có  biểu hiện sớm  như ít vận động, kém phát triển ngôn ngữ, không phân  biệt  được  lúc  được  bế  lúc không được bế, không có các đáp ứng tình cảm.

Tự kỉ:

Trẻ em bị rối  loạn  tự  kỉ  thường hay  biểu hiện bất  thường trong mối  quan  hệ xã hội (không có giao lưu tình cảm),  khó  khăn  trong  giao  tiếp (bằng  ngôn  ngữ hoặc phi ngôn ngữ); thu hẹp các hoạt động và sở thích.

Vấn đề này nhận thấy  ở  trẻ  dưới  3  tuổi. Đứa trẻ  này  không đáp ứng làm cha mẹ tưởng bị điếc.

Tự kỉ là rối loạn ít gặp, 1/1000, nam gấp 3 lần nữ.

Rối loạn này có thể do các  ảnh  hưởng tâm lí từ cha mẹ, do  di truyền (gãy gen X), viêm não siêu vi, rối loạn miễn dịch.

2/3 số trẻ tự kỉ vượt qua được và có  cuộc  sống độc lập khi trưởng thành. 1/3 sống bán độc lập.

Chậm phát triển tâm thần:

CPTTT bao gồm những tổn thương sâu sắc về mặt trí  tuệ  (chỉ  số  trí  tuệ IQ  dưới 70). CPTTT được phân loại theo mức độ: nhẹ, vừa, nặng, trầm trọng.

CPTTT  nhẹ  (IQ từ 50 –  69):

Trẻ vẫn có khả năng ngôn ngữ để  giao  tiếp hàng  ngày.  Chỉ có tư duy cụ thể, khó khăn nắm bắt các vấn đề lí  thuyết  trừu tượng. Còn khả năng  tự chăm sóc bản thân, làm các công việc đơn giản, máy móc.

Khó thích nghi với hoàn cảnh sống. Trẻ  nam  dễ  bị  dụ dỗ, xúi  dục, trẻ nữ dễ  bị lạm dụng tình dục.

CPTTT  vừa  (IQ từ 35 –  49):

Hoạt động nhận thức: ngôn ngữ ít ỏi, nghèo  nàn,  chỉ vài  ba từ, không hiểu khi tiếp xúc; có thể đọc, đếm ít ỏi. Về vận động – hành vi:  tự  chăm  sóc  hạn  chế.  Nhiều đối tượng phải cần sự chăm sóc  từ  bên ngoài.  Có  thể làm các công việc  đơn giản với sự giám sát chỉ vẻ kĩ.

CPTTT nặng (IQ từ 20 – 34):

Các hoạt động rất nghèo nàn, thụ động; thường có các thiếu sót, dị tật về thần kinh, cơ thể đi kèm.

CPTTT trầm trọng ( IQ

Không biểu lộ gì về nhận thức và tình cảm.; sống tại  chỗ,  nhiều dị  tật; ngôn ngữ không có, khả năng giao tiếp cùng lắm  chỉ  khu  trú vào  việc  ăn,  uống.  Mọi  việc hoàn toàn phụ thuộc vào người khác, được chăm sóc tốt thì mới tồn tại.

Tỉ lệ trẻ CPTTT khoảng 1 – 2% dân số; đại đa số ở thể nhẹ.

Nguyên nhân: rất nhiều loại.

Từ bà mẹ khi mang thai không được chăm sóc đầy đủ.

Bị thương bị nhiễm trùng, bị nhiễm  độc  từ  bé  là  những  nguyên  nhân  chủ yếu.

Khoảng 5 – 10% là do gen di truyền (gãy gen X, bệnh Down, bị ảnh hưởng dioxin).

Những tác động môi trường  như  suy dinh  dưỡng,  thiếu thốn tình cảm  hoặc  giao tiếp xã hội, trẻ mồ côi nghèo khổ cũng có thể gây ra CPTTT.

Những rối loạn bài tiết:

Đái dầm:

Trẻ em không có những rối  loạn thực  thể đường tiết niệu hay ĐK mà đái dầm ban đêm hoặc đái ra quần ban ngày ít  nhất  2  lần trong một  tuần.  Sau khi đã được hơn 5 tuổi thì được chẩn đoán là rối loạn chức năng đường tiết niệu – đái  dầm.  Hiếm khi rối loạn này còn tồn tại, đến tuổi trưởng thành.

Thuốc chống trầm cảm 3 vòng (imipramin) dùng riêng biệt hoặc desmopressin (hormon làm tăng trương lực cơ) có kết quả như nhau trong điều trị ngắn ngày.

Việc tái phát triệu chứng này thường gắn với căng thẳng  tâm  lí, khó  khăn tình cảm hoặc ngủ nơi lạ.

Rối loạn đại tiện:

Trẻ đại tiện nhiều lần ra quần không phải vì lí do thực  tổn (ỉa chảy). Hiện  tượng này thường do không muốn đi đại tiện, lo lắng thái quá, bị xử phạt.

Điều trị tập trung vào giúp trẻ đi đại tiện đều, đúng giờ.

Những rối loạn đi kèm theo như  lo  âu,  trầm  cảm, tránh né  xã  hội… cần  được quan tâm điều trị.

Những rối loạn ở trẻ lứa tuổi tiểu học (dưới 12 tuổi).

Đến tuổi này trẻ thường tách  ra  khỏi  bố  mẹ  để  đến trường đi học. Trong thời kỳ tiểu  học  trẻ  em phát triển về  hình dáng,  sức  khỏe, sự nhanh  nhẹn,  những kĩ năng giao tiếp xã hội và nhận thức. Vào  giai  đoạn cuối, sắp bước  sang tuổi  vị thành niên có thể bắt đầu suy nghĩ những vấn đề quan trọng (tập làm người lớn).

Những rối loạn học tập thường gặp trong  độ  tuổi này là:  kém phát  triển khả năng tính toán; nói ngọng, nói lắp, phát âm kém; kĩ năng viết kém.

Những em này thường có IQ  trung  bình;  những  kĩ  năng  từng  môn  yếu,  kết quả học tập thường thấp hơn trẻ cùng lứa (trung bình là 2 năm).

Các nguyên nhân: có thể do di truyền, thiếu sự chăm sóc, thiếu động cơ học tập, lo âu sợ hãi, trầm cảm.

Các liệu pháp điều trị: ngôn ngữ (dạy phát âm), luyện kĩ năng, thay đổi cách dạy… (các biện pháp giáo dục).

Rối loạn hành vi nổi loạn:

Chủ yếu gặp ở trẻ trai, ở những em gặp khó khăn  khi  phải  chịu đựng trách  nhiệm về những hậu quả hành động do chúng  gây  ra  thì  chúng lại  ứng xử không chấp nhận, tạo nên sự nổi loạn gây  lo  buồn  cho  người  khác.  Hầu  hết  các  em  nhận ra sai lầm sau khi được  chỉ  bảo,  bị  đánh,  bị  phạt; nhưng  có  xu  hướng  tái phát chai lỳ.

Rối loạn tăng động giảm chú ý:

Trẻ bị rối loạn tăng động/giảm chú ý thường hay đãng trí và  không thể hướng  dẫn làm việc gì.  Chúng  thường  hay phá phách và không yên, bồn chồn chạy nhảy  thái quá. Người ta dự tính có  tới  4% trẻ  tiểu học bị chứng này. Bé trai mắc  gấp 3  lần bé gái.

Tăng động/giảm chú ý có thể  do  rối  loạn trong sự phát  triển của hệ  thần kinh do nhiều nguyên nhân kể  cả yếu  tố  di  truyền. Giải  pháp là một phác đồ điều trị  hỗn hợp, nhưng chủ yếu là làm  việc  có  hiệu quả  với  cha mẹ chúng. Tư  vấn  thay đổi cách dạy dỗ chăm sóc, tăng  cường  kỉ  luật,  nghiêm  túc  và  khen  thưởng  mỗi khi trẻ làm đúng.

Các thuốc  kích  thích  tâm thần   như  methylphenidate  hay  dexamphetamin đóng vai trò chủ chốt  trong sự khôi  phục  tập trung, tăng dẫn truyền thần kinh. Điều trị thuốc này nên thực hiện ngắn ngày. Thuốc này  gây  kém  ăn,  kém  ngủ  và  lạm dụng chất.

Các thuốc tăng bổ trợ thần kinh như pho – L, bramin cũng có tác dụng tốt.

Rối loạn tâm thần thể chống đối:

Những đứa trẻ này có tính khí thất thường, hoang dã,  không vâng  lời, hay cãi  nhau với người lớn làm phiền lòng mọi người.  Chúng  thường  được  xem  như  những đứa trẻ hư đốn, mất tính cách, vô kỉ  luật. Trẻ  có  thể  cũng có  thể  đáp ứng đối với sự quản lí chặt chẽ  của gia đình, thầy cô  giáo  hoặc  bắt  chước  cách sống cẩu thả, vô tổ chức của bố mẹ hay của người thân.

Những trẻ vị thành niên bị trầm cảm cũng có  thể  biểu lộ như vậy. Vì  vậy giáo dục kĩ năng làm cha mẹ và liệu pháp gia đình là cách điều trị  hữu hiệu. Cần thiết  điều trị rối loạn trầm cảm đi kèm.

Rối loạn ứng xử:

Rối loạn ứng xử bao gồm các hành vi: chọc  ghẹo  người  khác,  gây  gổ, đánh nhau, thô bạo với người khác hoặc  súc  vật,  đồ  dùng;  ăn  cắp,  trấn lột; phá phách; đột nhập vào nhà người khác; bỏ nhà đi bụi…

Có mối liên hệ rõ ràng giữa rối loạn ứng xử với đạo đức và lối sống của bố

mẹ.

Việc tư vấn cá nhân rất quan trọng nhưng gặp nhiều khó khăn và phải kết hợp

với liệu pháp gia đình.

Rối loạn lo âu:

Tình huống đưa trẻ đến tình trạng lo âu là do tách  mẹ,  phải  đến  trường,  chuyển lớp, chuyển trường, mất mát người thân…

Rối loạn dạng cơ thể:

Các triệu chứng bao gồm các rối loạn chức năng mà không tìm thấy một bằng chứng thực tổn nào. Chủ yếu là đau bụng, đau đầu, đau cơ thể, mệt mỏi.

Cha mẹ thường đóng vai trò khuếch trương các triệu chứng này,

Hầu hết trẻ em ít nhất cũng có một lần giả ốm để nghỉ học, để được chăm sóc nhưng hiếm khi trở thành rối loạn nặng.

Nếu nặng và tái diễn nhiều lần thì phải đi khám chuyên khoa tư vấn điều trị.

Các chiến lược điều trị bao gồm: giáo  dục,  huấn  luyện  thư  giãn,  liệu  pháp hành vi nhận thức và vật  lí  trị  liệu,  có  thể  điều trị  bằng  thuốc  chống rối loạn lo âu, trầm cảm.

Rối loạn tâm thần ở trẻ vị thành niên (13 – 18 tuổi).

Dậy thì đánh dấu khởi đầu của giai đoạn vị  thành  niên,  một  giai  đoạn  chịu đựng những biến đổi sâu sắc trong các mối  quan  hệ  xã hội  và  giới  tính. Tuổi dậy thì ở bé gái thường sớm hơn (10 – 14 tuổi), trẻ nam muộn hơn (12 – 18 tuổi).

Các thay đổi về vai trò, tính cách,  quan  hệ  gia đình và xã hội của các em phản ảnh sự trưởng thành của  chúng.  Hầu hết  trẻ  vị  thành niên vượt  qua giai  đoạn này mà không có biến động hay rối loạn gì lớn. Tuy nhiên cũng có em rơi vào khủng hoảng. Những thay đổi hormon giới  tính, hoạt  động tình dục  hoặc  bị  lạm  dụng  tình dục có vai trò tạo nên sự khủng hoảng.

Lạm dụng chất kích thích:

Sử dụng ma túy là  nguy  cơ  nổi  bật  ở  lứa tuổi này.  Đặc  biệt ở trẻ lang thang bụi đời, gia đình tan vỡ, bị đuổi học, bị bỏ học, vô gia cư.

Trầm cảm:

Thay vì buồn bã thì trẻ  em vị thành  niên trầm  cảm  thường  biểu hiện lập  dị,  hay cáu bẳn và dễ kích  động.  Những  biểu  hiện  như  ăn  ngủ  nhiều  cũng  xảy  ra phổ biến trái  ngược  với  trầm  cảm  ở  người  lớn là ngủ  ít,  ăn  không  ngon  miệng và giảm cân.

Điều trị bằng thuốc chống trầm cảm hiệu quả thấp hơn người lớn.

Nguy cơ trẻ bị trầm cảm có ý định tự sát là rất cao.

Hành vi tự sát:

Đã trở thành nguyên nhân gây tử vong cao  nhất  ở  tuổi  vị  thành niên ở nhiều nước trên thế giới, nên cần phải cảnh giác với vấn đề này.

Những tình huống gợi ý nguy cơ tự sát, có bạn bè  tự sát, thất vọng, bị cha mẹ, thầy cô giáo la mắng, mất thể diện,  có  rối  loạn tâm thần,  lạm dụng chất, bị  lạm dụng tình dục…

Cần có biện pháp và chương trình phòng  chống thích hợp như  nâng  cao  hiểu biết của cộng đồng, cải thiện cuộc sống, môi trường gia đình, trường học cởi mở thân thiện…

Một số rối loạn loạn thần khác:

Các rối  loạn  loạn thần như:  rối  loạn cảm xúc,  TTPL…  cũng thường khởi  phát  ở cuối giai đoạn vị thành niên. Cần  được  lưu ý phát  hiện sớm,  điều trị  kịp thời, hiệu quả sẽ có tác dụng khỏi bệnh, ngăn ngừa sa sút.