Giới thiệu
Trong khi dày sừng ánh sáng (AK) thường được coi là biểu hiện của tình trạng “tiền ác tính”, một số tác giả đã khẳng định rằng trên thực tế, chúng đại diện cho giai đoạn sớm nhất của ung thư biểu mô tế bào vảy (SCC) (Ackerman và Mones 2006).
Tuy nhiên, phần lớn các bác sĩ lâm sàng không coi đây là khối u ác tính mà là các tổn thương tiền căn có tiềm năng ác tính. Rất phổ biến ở những bệnh nhân lớn tuổi bị tổn thương do ánh sáng, chúng xuất hiện dưới dạng các mảng màu hồng, có vảy, thường dễ cảm nhận hơn là nhìn thấy. Vì lý do này, việc sờ nắn da rất quan trọng trong việc phát hiện chúng.
Dày sừng ánh sáng trở nên dai dẳng hoặc phì đại có thể tiến triển thành ung thư biểu mô tế bào vảy, và do đó, chúng thường được điều trị. Chẩn đoán thường được thực hiện dựa trên biểu hiện lâm sàng. Các tổn thương đáng nghi vấn hoặc không đáp ứng với các phương pháp điều trị ban đầu, nên được sinh thiết để loại trừ ung thư biểu mô tế bào vảy.
Điều trị actinic keratoses
Có một số phương pháp có sẵn để điều trị hiệu quả dày sừng ánh sáng. Nhiều dày sừng ánh sáng sẽ tự khỏi, và không phải là không hợp lý khi quản lý một cách thận trọng bằng quan sát. Phương thức này phù hợp nhất với những bệnh nhân đáng tin cậy được khám định kỳ. Vì sự tiến triển của AK thành SCC có xu hướng xảy ra khá chậm, nên việc quan sát có thể phù hợp với những bệnh nhân bị giảm tuổi thọ. Mặc dù trọng tâm của tập sách ảnh này là về ung thư da, nhưng vì mục đích đầy đủ, một số phương pháp điều trị phổ biến nhất được sử dụng cho dày sừng ánh sáng được đề cập dưới đây.
Phương pháp áp lạnh
Phương pháp áp lạnh được sử dụng phổ biến nhất để điều trị dày sừng ánh sáng. Kỹ thuật này thường liên quan đến việc sử dụng một thiết bị chuyên dụng có thể kiểm soát rất chính xác lượng nitơ lỏng. Điều quan trọng cần nhận ra là mặc dù kỹ thuật này có thể rất hiệu quả trong việc phá hủy các tổn thương biểu bì, nhưng nó thường đi kèm với hiện tượng chảy máu, mất mô và thường có thể dẫn đến sẹo lõm hoặc giảm sắc tố. Vì vậy, cần hết sức lưu ý để hạn chế thiệt hại cho vùng mô xung quanh, đặc biệt là ở những vùng nhạy cảm hơn về mặt thẩm mỹ như mặt.
Điều quan trọng là nhận ra rằng các nghiên cứu chi tiết việc sử dụng phẫu thuật lạnh để điều trị ung thư da đang mô tả một kỹ thuật khác với kỹ thuật đã đề cập ở trên. Phẫu thuật lạnh ung thư da là một kỹ thuật được kiểm soát cẩn thận, nhờ các cảm biến nhiệt được đặt trong da cho phép kiểm soát chính xác nhiệt độ ở độ sâu cụ thể trong mô. Kỹ thuật này không được sử dụng phổ biến và không nên nhầm lẫn với việc phun trực tiếp các actinic keratoses bằng nitơ lỏng (Hình 2.1–2.6).
Hình 2.1 :Thiết bị áp lạnh được giữ cách tổn thương cần điều trị khoảng 1–2 cm
Hình 2.2 :Đóng băng có thể được ghi nhận trên bề mặt da ngay sau khi bắt đầu điều trị
Hình 2.3: Khu vực đóng băng có thể được nhìn thấy mở rộng trong khi tiếp tục phun
Hình 2.4: Sau khi toàn bộ khu vực được ghi nhận là đã bị đóng băng hoàn toàn, việc phun nitơ lỏng sẽ được ngừng
Hình 2.5: Tổn thương được ghi nhận là tan băng từ từ sau khi ngừng phun
Hình 2.6: Sau khi khu vực bị đóng băng đã tan băng hoàn toàn, chu trình đông lạnh- rã đông được lặp lại một đến hai lần nữa để điều trị hoàn toàn
Điều trị tại chỗ
Những tiến bộ dược lý học gần đây đã được cho ra đời các phương pháp điều trị tại chỗ, ít xâm lấn hơn đối với bệnh dày sừng ánh sáng. Chúng bao gồm liệu pháp quang động (PDT) và kem bôi ngoài da, chẳng hạn như 5- fluorouracil và imiquimod.
Các loại kem như imiquimod và 5- fluorouracil (5-FU) đã rất phổ biến trong việc điều trị các dày sừng ánh sáng. Chúng được sử dụng phổ biến hơn trong cái gọi là “vùng điều trị” cho những vùng da bị tổn thương do ánh nắng mặt trời với nhiều dày sừng ánh sáng. Tỷ lệ chữa khỏi AK khác nhau tùy thuộc vào độ mạnh của 5-FU được sử dụng, cũng như thời gian của quá trình điều trị, nhưng một phân tích tổng hợp gần đây về hiệu quả của 5-FU trong điều trị dày sừng ánh sáng cho thấy rằng bệnh nhân có thể kỳ vọng giảm 80–90% tổn thương và một nửa bệnh nhân có thể mong đợi sự biến mất của tất cả các AK của họ (Askew và cộng sự 2009).
PDT kết hợp việc bôi chất cảm quang, sau đó chiếu xạ bằng tia laser hoặc ánh sáng đã lọc. Chất cảm quang được bôi tại chỗ cho một “vùng” đã chọn, ví dụ như trán và thái dương, và được ưu tiên đưa vào các tế bào tiền ung thư hoặc ung thư. Khu vực này sau đó được điều trị bằng ánh sáng và được hấp thụ bởi phân tử cảm quang, dẫn đến sự phá hủy có chọn lọc các tế bào được nhắm mục tiêu. Một loạt các chất cảm quang và nguồn sáng đã được nghiên cứu và xem xét, cho thấy kết quả khiêm tốn trong việc điều trị dày sừng hoạt tính (Tierney et al. 2009). Do sự phát triển gần đây và sự tiến hóa liên tục của các thiết bị PDT, phần lớn dữ liệu đại diện cho kết quả ban đầu của một số nghiên cứu cụ thể, cần tiếp tục duy trì cho đến khi có tỷ lệ chữa khỏi lâu dài và được chứng minh.
Hình ảnh lâm sàng của actinic keratoses
Hình 2.7
Chẩn đoán: Actinic Keratoses-Diffuse
Mô tả lâm sàng: Các sẩn lan tỏa, màu hồng, có vảy, liên kết lại thành mảng lớn hơn trên mặt
Hình 2.8
Chẩn đoán: Actinic keratoses-Diffuse
Mô tả lâm sàng: Các sẩn lan tỏa, màu hồng, có vảy, liên kết lại thành mảng lớn hơn trên cánh tay
Hình 2.9
Chẩn đoán: Actinic keratoses-Diffuse
Mô tả lâm sàng: Các mảng lan tỏa, màu hồng, có vảy trên trán và da đầu
Hình 2.10
Chẩn đoán: Actinic keratoses-Diffuse
Mô tả lâm sàng: Các mảng lan tỏa, màu hồng, có vảy trên trán và da đầu
Hình 2.11
Chẩn đoán: Actinic keratoses
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, có vảy trên đầu mũi
Hình 2.12
Chẩn đoán: Actinic keratosis
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, có vảy trên má trái
Hình 2.13
Chẩn đoán: Hypertrophic Actinic Keratosis
Mô tả lâm sàng: Sẩn tăng sừng
Hình 2.14
Chẩn đoán: Pigmented Actinic Keratosis
Mô tả lâm sàng: Mảng dày sừng, tăng sắc tố, nhô cao nhẹ ở má trái
Hình 2.15
Chẩn đoán: Pigmented Actinic Keratosis
Mô tả lâm sàng: Mảng dày sừng, tăng sắc tố, thô ráp
Hình ảnh lâm sàng của bệnh lý giống actinic keratosis
Hình 2.16
Chẩn đoán: Seborrheic Dermatitis-chronic and inflamed
Mô tả lâm sàng: Khoảng màu hồng với vảy khô bên trên và lớp vỏ huyết thanh
Hình 2.17
Chẩn đoán: Seborrheic Dermatitis-chronic
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, có vảy dọc theo chân tóc với vảy trắng dính chặt
Hình 2.18
Chẩn đoán: Xerosis (dry skin)
Mô tả lâm sàng: Khoảng màu hồng với vảy trắng ở cẳng chân
Hình 2.19
Chẩn đoán: Xerosis (dry skin)
Mô tả lâm sàng: mảng màu đỏ có vảy trắng ở cẳng chân
Hình 2.20
Chẩn đoán: Hand eczema
Mô tả lâm sàng: Khoảng màu hồng, viêm, có vảy trên mặt lưng bàn tay
Hình 2.21
Chẩn đoán: Seborrheic Keratoses- inflamed
Mô tả lâm sàng: Nhiều sẩn và mảng màu nâu trên lưng. Ở trung tâm có một số tổn thương có màu hồng và viêm. Dày sừng tiết bã nhờn bị viêm có thể bị xước hoặc bong ra và để lại một vùng vảy màu hồng có thể giống như dày sừng ánh sáng
Hình 2.22
Chẩn đoán: Porokeratosis
Mô tả lâm sàng: Mảng màu đỏ với viền xung quanh có vảy
Hình 2.23
Chẩn đoán: Porokeratosis
Mô tả lâm sàng: Mảng màu đỏ với viền xung quanh có vảy
Hình 2.24
Chẩn đoán: Squamous cell carcinoma in situ
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, có vảy ở má trái
Hình 2.25
Chẩn đoán: Seborrheic Dermatitis
Mô tả lâm sàng: Ban đỏ và vảy quanh miệng và đặc biệt là trong nếp gấp mũi-má
Hình 2.26
Chẩn đoán: Seborrheic dermatitis
Mô tả lâm sàng: Các mảng màu hồng với vảy màu vàng, nhờn, dính trên mặt, đặc biệt dọc theo rãnh mũi
Hình 2.27
Chẩn đoán: Basal Cell Carcinoma
Mô tả lâm sàng: mảng màu đỏ, xơ cứng có vảy phủ trên mũi phải
Hình 2.28
Chẩn đoán: Basal Cell Carcinoma
Mô tả lâm sàng: mảng màu đỏ, có vảy, nhô cao nhẹ
Hình 2.29
Chẩn đoán: Lichenoid Keratosis
Mô tả lâm sàng: mảng màu đỏ, có vảy, nhô cao nhẹ
Hình 2.30
Chẩn đoán: Discoid Lupus
Mô tả lâm sàng: mảng màu đỏ có vảy bám bên trong tai
Hình 2.31
Chẩn đoán: Discoid Lupus
Mô tả lâm sàng: mảng màu đỏ có vảy bám dính trên thành mũi trái
Hình 2.32
Chẩn đoán: Microcystic Adnexal Carcinoma (MAC)
Mô tả lâm sàng: mảng màu đỏ, có vảy, nhô cao nhẹ ở gốc mũi
Hình 2.33
Chẩn đoán: Amelanotic Melanoma
Mô tả lâm sàng: mảng màu đỏ, có vảy, nhô cao nhẹ ở mũi
Hình 2.34
Chẩn đoán: superficially invasive Squamous Cell Carcinoma
Mô tả lâm sàng: mảng màu đỏ, có vảy, nhô cao nhẹ ở chân mày bên phải
Tài liệu tham khảo
Ackerman AB, Mones JM (2006) Solar (actinic) keratosis is squamous cell carcinoma. Br J Dermatol 155(1):9–22
Askew DA, Mickan SM, Soyer HP et al (2009) Effectiveness of 5- uo- rouracil treatment for actinic keratosis-a systematic review of ran- domized controlled trials. Int J Dermatol 48(5):453–463
Tierney E, Barker A, Ahdout J et al (2009) Photodynamic therapy for the treatment of cutaneous neoplasia, in ammatory disorders, and photoaging. Dermatol Surg 35(5):725–746