Nội dung

Tâm thần phân liệt

Đại cương.

Khái niệm:

Tâm thần phân liệt (Schizophrenia) là một bệnh tâm thần nặng, tương đối phổ biến, căn nguyên  chưa rõ, tiến triển và  tiên lượng rất khác  nhau và  bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng lứa tuổi trẻ thường gặp nhiều hơn cả. Theo tiếng Hy Lạp: Schizo có nghĩa là chia tách, phân rời và phrenia có nghĩa là tâm hồn, tâm thần.

Theo quan niệm TTPL là một đơn vị bệnh lí độc  lập,  người  ta có  thể  định  nghĩa như sau: “Tâm thần phân liệt là một bệnh loạn thần nặng và phổ  biến, căn nguyên chưa rõ, bệnh có tính chất tiến triển với những rối loạn đặc trưng về tư duy, tri giác và cảm xúc, dẫn đến những rối  loạn  cơ  bản  về  tâm lí  và  nhân cách theo kiểu phân liệt, nghĩa là mất dần tính hài  hoà, thống nhất  gây ra chia cắt trong  các mặt hoạt động tâm thần”.

Ngày nay, một số các nhà tâm thần  học  trên thế  giới  lại  cho  rằng  TTPL  là một nhóm bệnh lí hay một nhóm các hội chứng phân liệt.

Breen (2001) cho rằng: TTPL là các rối loạn đặc trưng bởi các rối loạn tư duy, cảm xúc và hành vi bao gồm những triệu chứng dương tính và âm tính:

Các triệu chứng dương tính như: hoang tưởng, ảo giác, căng trương lực,…

Các triệu chứng âm tính như:  cảm xúc  cùn mòn, vô  cảm, thu hẹp các  mối quan hệ xã hội, thu mình lại, giảm các thích thú và ngôn ngữ nghèo nàn.

Tầm quan trọng:

TTPL là một bệnh  phổ  biến, theo  các  thống kê  của nhiều nước trên thế giới tỉ lệ bệnh chiếm khoảng từ 0,3 – 1,5% dân số. Cũng theo R. Breen (2001), tỉ lệ mới  mắc cuả bệnh TTPL là từ  1,1  –  7/10.000 dân.  Theo  H.I.  Kaplan và  B.J. Sadok là 2,5 – 5/10.000 dân . Tỉ lệ mắc ở  các  nước  đang  phát  triển cao  hơn ở các  nước công nghiệp. Tỉ lệ mắc điểm dao  động từ 0,6  –  8,3%. Theo  một  nghiên cứu của  Mỹ thì tỉ lệ mắc trong đời là 1,3%.

Bệnh thường phát sinh ở lứa tuổi trẻ, phần lớn trong độ tuổi  15  –  35  tuổi,  (48% khởi phát ở lứa tuổi 20 – 29 tuổi).  Đây  là độ tuổi lao  động và làm nghĩa vụ quân sự. Theo kết quả khảo sát của ngành Tâm thần học Việt Nam (2002) trên

67.380 dân ở  các  vùng  dân  cư khác  nhau, tỉ lệ TTPL là 0,47% dân số. Ở cả 2 giới  tỉ lệ mắc bệnh tương  đương  nhau,  nữ  có  xu  hướng  khởi  phát  muộn  hơn  (nam: 15 – 25 tuổi, trung bình là 20; nữ: 25 – 35 tuổi, trung bình là 30).

Lược sử nghiên cứu bệnh tâm thần phân liệt.

Năm 1911, P.E. Bleuler (Thụy Sĩ) phát hiện ra các nét cơ bản nhất  của bệnh chính là tính phân liệt trong hoạt động tâm thần. Đó là sự không hoà hợp, không thống nhất, sự chia  cắt  các  mặt  hoạt  động tâm thần. Theo  ông, TTPL  không phải là một bệnh mà là một nhóm bệnh kết hợp giữa các triệu chứng tâm thần.

Năm 1937, qua  nghiên  cứu  hậu sử, G. Langfeldt  chia TTPL  ra 2  nhóm chính  là bệnh TTPL chính thức tiến triển không  thuận  lợi  và  loạn  tâm  thần  dạng  phân liệt tiến triển có khuynh hướng khả quan hơn.

Năm 1939, K. Schneider, một nhà tâm thần học  Đức  cho  rằng:  các  triệu  chứng cơ bản của E. Bleuler xuất  hiện  chậm  và  cũng  có thể gặp trong các  bệnh tâm thần khác. Ông cũng đưa ra 11 triệu chứng, cho rằng đó là các triệu chứng hàng đầu rất thực tiễn giúp cho chẩn đoán  bệnh  được  khách  quan  và  chính  xác hơn, nhưng với điều kiện đã loại trừ các căn nguyên thực tổn.

Năm 1966, A.V. Xnheznhepxky có quan điểm về bệnh TTPL như sau:

Bệnh TTPL tiến triển động và  đa dạng  khó  xác  định các tiêu chuẩn cố định  để chẩn doán bệnh và khái quát bằng 3  nhóm  tiến  triển  (tiến triển liên tục, tiến triển liên tục từng cơn và tiến triển chu kì).

Sự biến chuyển và thay thế nhau  giữa  các hội chứng được chẩn đoán theo 2 mặt cắt: mặt cắt ngang bao  gồm các  triệu chứng tâm thần hiện tại  và  mặt cắt  dọc bao gồm suốt quá trình tiến triển của bệnh theo thời gian.

Sự chuyển biến của 9 triệu chứng dương tính thay thế hoặc xen kẽ lẫn nhau hoặc chồng chéo lên nhau từ nhẹ đến nặng bao gồm:

Hội chứng suy nhược thần kinh.

Các  hội chứng  rối loạn cảm xúc.

Hội chứng  giống  loạn thần kinh.

Hội chứng paranoia.

Hội chứng ảo giác.

Hội chứng paranoid.

Hội chứng paraphrenia.

Hội chứng căng trương lực.

Trạng thái cuối cùng.

Năm 1992, Tổ chức Y tế Thế  giới  đã công bố  Bảng  phân  loại  bệnh Quốc  tế lần thứ 10 ( ICD – 10), trong đó TTPL được xếp vào nhóm F2.

Năm 1994, Hội Tâm thần học Mỹ đã cho ra đời bảng phân loại DSM-IV-TM, trong đó TTPL được xếp vào nhóm 295.

Bệnh sinh bệnh tâm thần phân liệt.

Các quan niệm về bệnh sinh bệnh  TTPL  rất  khác  nhau.  Từ  khi  P.E.  Bleuler nêu ra quan điểm TTPL là một nhóm  bệnh,  vấn  đề  bệnh  sinh  của  TTPL  ngày  càng được quan tâm hơn. Tuy nhiên,  bệnh  sinh  của TTPL  diễn ra theo  những  cơ chế rất phức tạp và chưa được làm sáng tỏ, chưa có một giả thuyết nào có thể giải thích được cách khởi phát đa dạng  và  sự dao  động lớn các  triệu chứng  lâm  sàng của bệnh.

Năm 1951, O. Lingjaerde thấy  TTPL  là sự tương quan  giữa  các  yếu tố cơ thể và tâm lí, nội sinh và  ngoại  sinh,  yếu  tố  bẩm  sinh  và  phản ứng. Quan niệm hiện nay cho rằng, bệnh sinh của TTPL  có  thể  là những  sự tác  động của các  yếu tố  sinh học, xã hội và tâm  lí. Do  đó mỗi giả thuyết chỉ phản ánh được một khía cạnh  nào đó của quá trình phát triển của bệnh mà thôi.

Giả thuyết về di truyền trong tâm thần phân liệt:

Vấn đề di truyền trong TTPL là rõ ràng. Trong khi  tỉ lệ bị  TTPL  phổ  biến ở  cộng đồng là 1% thì nguy cơ bị bệnh trong nghiên cứu phả hệ lại cao (theo R.Breen, 2001 là 3 – 7%, theo Freedmann là khoảng 5%). D.W.  Black  và N.  Adreasen (1999) khi tổng hợp các nghiên cứu về gia đình cho thấy, trong gia đình có  một người bị TTPL thì những thành viên khác trong suốt cuộc đời có nguy cơ bị bệnh TTPL là 10% và trẻ em có bố hoặc mẹ bị TTPL thì nguy cơ bị TTPL là 5 – 6%.

Quan niệm di truyền đa gen được  nhiều tác  giả thừa nhận  hơn và  cho  rằng sự  tổ hợp nhiều gen quyết định tính di truyền của bệnh  TTPL.  Trong  cơ  chế  bệnh  sinh TTPL, hiện nay rất  khó  giải  thích được  là yếu tố nào  đóng vai  trò quyết  định di truyền mẫu gen của bệnh TTPL. Người  ta hy vọng  rằng trên cơ sở bản  đồ  gen  của người đã được xác lập, vấn đề di truyền trong TTPL sẽ được làm sáng tỏ.

Giả thuyết về phát triển tâm thần:

Các nghiên cứu trong nửa cuối thế kỉ XX đã xác  nhận,  yếu tố  phát  triển tâm thần có liên quan tới  cơ chế  bệnh sinh của TTPL.  Các  yếu tố  nguy  cơ trong thời  kì mang thai, mùa sinh, dinh dưỡng và các biến chứng sản khoa đóng một vai  trò  quan trọng trong việc phát sinh bệnh TTPL.

Giả thuyết về tâm lí – xã hội và văn hoá:

Test tâm lí cho thấy có  sự bất  thường rõ  rệt  ở  người  bệnh TTPL và cả ở một số người họ hàng chưa có  biểu hiện lâm  sàng  của TTPL.  Giả thuyết  tác động qua lại trong gia đình là yếu tố bệnh sinh quan trọng của bệnh TTPL, nhưng việc tăng nhanh các dữ liệu sinh học của TTPL đã phủ nhận giả thuyết này.

Việc giáo dục trong gia đình có khả năng làm thay đổi  cảm  xúc  và  tạo  một  cuộc sống ít stress hơn có tác dụng phòng bệnh TTPL.  Văn  hoá giữa các khu vực công nghiệp và nông nghiệp liên quan  đến  bệnh  TTPL  đã  được  nghiên  cứu  và giải thích rất khác nhau, nhưng yếu tố kinh tế đã làm ảnh hưởng đến yếu tố dinh dưỡng, vệ sinh và chăm  sóc  sức  khoẻ  tâm  thần  cho  nhân  dân  chứ không phải  là sự khác biệt về văn hoá.

Giả thuyết về sinh học:

Các nghiên cứu sinh học và hoá sinh về cơ chế bệnh  sinh của TTPL  đã có nhiều kết quả triển vọng. Nhờ sự tiến bộ của  khoa  học  kĩ  thuật,  người  ta đã sử dụng phương pháp CT-Scan để nghiên cứu hình thái bệnh học  hệ  TKTW  trong  TTPL. Theo Th.Z. Craig, Z.  Bregman  (1988),  40,6%  bệnh  nhân  TTPL  khởi  phát có liên quan đến tổn thương thực thể não, đa số bệnh nhân có  teo vỏ  não  và giãn rộng các não thất. Năm 1980, T.J. Crow nghiên  cứu lâm sàng và  giải  phẫu bệnh lí não của bệnh nhân TTPL đã chia thành 2 type:

Type 1: khởi phát cấp tính, biểu hiện chủ yếu là các triệu chứng dương tính,  cấu trúc não hoàn toàn bình thường, dung nạp điều trị tốt.

Type 2: khởi phát từ từ, biểu hiện các triệu chứng âm tính là chủ yếu và có nhiều bất thường trong cấu trúc não, hiệu quả điều trị kém.

Quan điểm trên cũng được nhấn mạnh  lại  trong DSM-IV (1994) và  nghiên cứu của H.I. Kaplan và B.J. Sadock (1997). Sau nhiều năm nghiên  cứu,  các nhà  khoa học khẳng định có sự  bất  thường  trong cấu trúc  của nhiều vùng  não  khác nhau ở bệnh nhân TTPL, những  sự  biến  đổi  này  là  nguyên nhân  hay hậu quả của quá trình phân liệt thì chưa có tài liệu nào khẳng định  được.  Các  cấu  trúc  bất thường trong não biểu hiện là:

Giãn rộng các não thất bên: teo các tế  bào  thần kinh,  khoang não  thất  giãn rộng và chứa nhiều DNT hơn. Tuy nhiên cho  đến  nay  vẫn  chưa  xác  định  được vùng não đầu tiên bị teo.

Giảm kích thước vùng đồi thị: đồi thị  là trung tâm dẫn truyền và chuyển tiếp các thông tin giữa các vùng não khác nhau, nếu mất chức năng  thì  dẫn  đến tổn thương nhiều vùng não khác nhau.

Bất thường kích thước hồi hải mã: nhiều nghiên  cứu đã xác định kích thước của hồi hải mã nhỏ hơn bình thường, nhưng không xác  định được  tế  bào  bị  thoái hoá ngay trong bào thai hay trong quá trình phát triển của não.

Bất thường trong cấu trúc tế bào ở vùng trước trán: các bất thường này gây ra  các tổn thương dẫn truyền thần kinh từ hệ limbic  đến  thuỳ  đỉnh  và  thuỳ  thái dương.

Rối loạn chuyển hoá dopamin: những nghiên cứu gần đây đều cho  rằng  rối loạn chuyển hoá dopamin giữ vai trò chính trong bệnh sinh bệnh TTPL. Rối loạn chuyển hoá các chất trung gian hoá học  trong não  của bệnh nhân TTPL là sự biến  đổi của hệ thống enzyme  tổng hợp  hoặc  phân  hủy  dopamin, các biến đổi này thấy rõ trong các giai đoạn cấp tính của bệnh. Các giả thiết dopamin cho rằng, các bất thường gây ra bệnh TTPL có thể nằm ở thụ cảm thể D2. Có 4 loại thụ cảm thể dopamin là D1, D2, D3  và  D4  được  phân  bố  ở  các  vùng não  khác  nhau. Thụ cảm  thể D1 kết nối  với  adenylate  cyclase  nằm  ở vỏ  não  và  các  hạch nền, thụ cảm thể D2 không có  adenylate  cyclase  có nhiều ở thể  vân  và  thụ cảm thể  D3  và  D4  phân bố ở vùng limbic. Sự phân  bố  này đã làm cho  người  ta  nghi  ngờ  thuyết  dopamin cổ điển, vì vùng limbic là nơi tiếp nhận tác  dụng  của  các  thuốc  an  thần  kinh, nhưng các thụ cảm thể D2 lại rất thấp.

Những bất thường của hệ thống dẫn truyền  glutamate:  nồng  độ  glutamate giảm trong DNT của bệnh nhân TTPL, trên thực nghiệm  người  ta  nhận  thấy  khi tiêm phenylclidin (chất đối kháng với thụ cảm thể glutamate) đã gây ra các triệu chứng giống TTPL ở người bình thường. Các nghiên cứu khác  như:  chụp  cộng hưởng từ và giải phẫu bệnh lí  đều thấy  giảm  hoạt  động  dẫn  truyền  glutamate  ở các tế bào hình tháp vùng  trước  trán, các  tế  bào  này có tác  động qua lại  lên cả 2  hệ thống serotonin và dopamin.

Các nghiên cứu về bệnh lí của hệ thần kinh trung ương:

Các nghiên cứu của  Akbarian  và  cộng sự (1996)  thấy  thiếu hụt  chọn lọc  các tế bào thần kinh ở thuỳ trán như: giảm số lượng tế bào  ở bề mặt và tăng tế bào  có đuôi gai ở vùng  sâu chất  trắng.  B.  Pakkenberg (1990)  nhận  thấy  giảm  số  lượng và cả đuôi gai của tế bào ở các nhân của đồi não và các nhân ở vùng trước  trán.  Ngược lại, B. Bogerts (1993) và L.D.  Senemon  và  cộng  sự  (1995)  thấy tăng tế bào có đuôi gai ở vùng trước trán ở bệnh nhân TTPL.

Lâm sàng bệnh tâm thần phân liệt.

Các triệu chứng trong bệnh tâm thần phân liệt:

Các triệu chứng trong bệnh TTPL là rất đa dạng, phong phú và phức  tạp, luôn luôn biến đổi, nhưng đa số các tác giả đều thống  nhất  chia  2  loại  triệu chứng chung gồm: các triệu chứng âm tính và dương tính.

Các triệu chứng âm tính:

Các triệu chứng âm tính là thể hiện sự tiêu hao, mất mát  các  hoạt  động tâm thần sẵn có và mất tính toàn vẹn, thống  nhất  của hoạt  động tâm thần. Theo  quan điểm của P.E. Bleuler triệu  chứng  âm  tính là nền tảng  của quá  trình phân  liệt. Các triệu chứng âm tính gồm 2 loại chủ yếu:  thiếu hoà hợp, tự kỉ và giảm sút thế  năng tâm thần.

Tính thiếu hoà hợp:

Biểu hiện bằng 5 tính chất chung: tính 2 chiều trái ngược, tính dị kì khó  hiểu,  tính khó thâm nhập, tính phủ định và tính tự động.  Tính  thiếu hoà hợp  thể  hiện  trong tất cả các mặt hoạt động tâm thần, nhưng rõ  nét  nhất  là 3  mặt  hoạt  động chính như: tư duy, cảm xúc, hành vi  tác  phong.  Tính  tự  kỉ  cũng  mang  tính  chất như trên ở mức độ cao hơn, nổi bật là tính dị kì khó hiểu, khó thâm nhập.

Con người tự kỉ là con người dị kì, khó  thâm  nhập  biểu hiện đa dạng,  khi  thì đạo mạo, đài các, khi thì thô  bạo. Thế  giới  tự kỉ  là thế  giới  bên trong riêng biệt của bệnh nhân hết sức  kì  lạ,  đi  vào  thế  giới  nội tâm, vào  thế  giới bên trong với các qui luật tự nhiên và xã hội  đều bị  đảo  lộn và  người  bệnh hiểu và  làm những điều kì dị không ai có thể hiểu được.

Giảm  sút  thế  năng  tâm thần:

Giảm thế năng tâm thần là giảm  tính  năng  động,  tính  nhiệt  tình  trong  mọi hoạt động tâm thần. Biểu hiện cảm  xúc  ngày  càng  cùn  mòn,  khô  lạnh,  tư  duy ngày càng nghèo nàn, ý chí ngày càng  suy đồi, hoạt  động ngày càng  yếu đuối  đi đến chỗ không thiết làm công việc gì.

Các triệu chứng dương tính:

Là những triệu chứng xuất hiện trong quá trình bị  bệnh.  Triệu chứng  dương  tính rất đa dạng và phong phú, luôn luôn biến  đổi, xuất  hiện nhất  thời và  mất  đi hoặc thay thế bằng những triệu chứng dương tính khác.

Các triệu chứng âm tính và dương tính trong tâm thần phân liệt:

Đều biểu hiện trong các mặt hoạt động tâm thần. Mối liên quan giữa các triệu chứng âm tính và dương tính phụ thuộc  vào  các  thể  tiến triển của  bệnh  TTPL,  bệnh càng nặng thì các triệu chứng âm tính càng nhiều.

Về tư duy:

Rối loạn cả về hình thức và nội  dung  tư  duy,  ngôn  ngữ  của  người   bệnh thường sơ lược, tối nghĩa, ẩn dụ, khó hiểu và thường có những  lời  nói ngắt  quãng hoặc thêm từ lạ. Dòng tư duy của  bệnh  nhân nhanh  hoặc  chậm,  nói  một  mình hoặc không nói hoặc có cơn nói liên hồi  hoặc  nói  đầu gà đuôi  vịt,  hỗn độn hoặc nói lặp đi lặp lại.

Hai nét đặc trưng nhất của rối loạn tư duy là hội  chứng tâm thần tự động và hoang tưởng bị chi phối, những ý nghĩ và  hành  vi  sâu  kín  nhất  dường  như  bị  người khác biết hoặc đánh cắp. Người bệnh thường phàn nàn bị chi phối bằng các máy móc như: máy vô tuyến điện, máy ghi âm, máy điều khiển từ xa và  có  trường hợp thấy mình bị chi phối bằng phép thuật  hoặc  thôi  miên hoặc  bằng  một sức mạnh siêu nhiên.

Về tri giác:

Đặc trưng nhất là ảo thanh bình phẩm hoặc thảo luận với  nhau  về  hành  vi  của bệnh nhân hoặc đe doạ, cưỡng bức hoặc  ra  lệnh  làm  những việc  nguy hiểm cho bệnh nhân và xã hội và cũng có thể  gặp  ảo  thị, ảo  khứu hoặc ảo  xúc  giác  nhưng hiếm hơn. Một số bệnh nhân khác gặp rối  loạn cảm  giác  bản  thể,  giải  thể  nhân cách hoặc biến hình bản thân  như  không  có  tim  phổi,  chân  tay dài ra hoặc  ngắn lại và có suy nghĩ tác phong của mình biến đổi, cái “tôi” đã biến mất.

Về cảm xúc:

Những thay đổi cảm xúc thường xuất hiện sớm,  đặc  trưng  là  cảm  xúc  cùn mòn, khô lạnh, bàng quan, lạnh  nhạt  và  người  bệnh  mặc  cảm  với  những  người xung quanh, không hào hứng với những thú vui trước đây vốn  có.  Cảm  xúc  trái ngược hoặc cảm xúc 2 chiều vừa yêu lại  vừa  ghét  đối  với  một  người  hoặc  một hiện tượng. Người bệnh thường  hằn  học  với  mọi  người,  xa  lánh  người  thân  và đôi khi xuất hiện những cảm xúc đột biến như:  cơn khóc, cơn cười  vô  duyên cớ  hoặc cơn lo sợ, giận dữ và có cơn trầm cảm hoặc cơn hưng cảm.

Về tâm lí vận động:

Có nhiều loại rối loạn, nhưng đặc trưng là căng trương lực  biểu hiện bằng  2 trạng thái kích động và bất động xen  kẽ  nhau.  Trạng  thái  kích  động  biểu  hiện  bằng lời nói và động tác định hình (kiểu  cách  định  hình  như  nhún  vai,  nhếch  mép, xua tay), hành vi dị kì khó hiểu (trời rét cởi trần ra tắm) và  có  thể  có  xung động tấn công hoặc xung động đốt nhà hoặc giết người. Trạng  thái  bất  động biểu hiện bằng sững sờ, giữ nguyên dáng và uốn sáp, tạo hình.

Rối loạn ý chí:

Người bệnh mất sáng kiến, mất động cơ và  hoạt  động không  hiệu quả,  thói  quen nghề nghiệp cũ mất dần và không thiết làm gì, đời sống ngày  càng suy đồi không chú ý đến vệ sinh thân thể và nằm một chỗ không muốn hoạt động.

Các xét nghiệm cận lâm sàng:

Tâm thần phân liệt là một bệnh loạn  thần nội  sinh, nguyên nhân chưa rõ  nên chưa có xét nghiệm cận lâm sàng nào giúp cho chẩn đoán xác định bệnh, các trắc nghiệm tâm lí cũng chỉ hỗ trợ cho chẩn đoán. Việc chẩn đoán bệnh TTPL chủ yếu dựa vào các triệu chứng và hội chứng lâm sàng. Người ta có thể sử dụng trắc nghiệm tâm lí lâm sàng nhưng cũng chỉ có giá trị tương đối.

Các giai đoạn tiến triển của bệnh tâm thần phân liệt:

Thông  thường  qua  3 giai  đoạn:  báo  trước, toàn phát  và  di chứng.

Giai đoạn báo trước:

Thời kì  đầu thường biểu hiện chủ yếu là các  triệu  chứng  suy  nhược  như: chóng mệt mỏi, khó chịu, đau đầu, mất ngủ, cảm giác khó  khăn  trong học  tập và công tác, khó tiếp thu cái mới, đầu  óc  mù  mờ  như  có  màn sương che  phủ, khó suy nghĩ, cảm xúc lạnh nhạt,  khó  thích  ứng  với  ngoại  cảnh,  giảm  dần  các  thích thú trước kia, bồn chồn, lo lắng vô  duyên  cớ,  dễ  nổi  khùng  và  tiếp theo là cảm  giác bị động, dường như đuối sức  trước  cuộc  sống, không  theo  kịp những  thay  đổi xung quanh. Một số bệnh nhân khác lại cảm  thấy  có  những  biến  đổi  là  lạ trong người, thay đổi nét  mặt  hoặc  màu  da,  cũng có  bệnh nhân  tự nhiên trở nên say sưa đọc các loại sách triết học, lí luận viển vông không phù hợp với thực tế.

Giai đoạn toàn phát:

Các triệu chứng khởi đầu cứ tăng dần và  xuất  hiện các  triệu chứng loạn thần ngày càng rầm rộ, phong phú như:  ảo  giác  và  hoang  tưởng hoặc  thiếu hoà hợp.  Tùy các triệu chứng và hội chứng  chiếm  ưu thế,  người  ta chia ra từng  thể  lâm sàng khác nhau. Theo ICD-10, bệnh TTPL gồm các thể sau:

F20.0. Tâm thần phân liệt thể paranoid:

Là thể bệnh thường gặp nhất, triệu chứng nổi bật  là  các  hoang  tưởng  và  ảo giác. Các hoang tưởng đặc trưng là hoang tưởng bị chi phối, bị kiểm tra và hoang tưởng bị truy hại. Các ảo giác thường gặp  là  ảo  thanh  bình phẩm  về  hành vi  của bệnh nhân hoặc nói chuyện với nhau về bệnh nhân  hoặc  đe  doạ hoặc  ra lệnh cho bệnh nhân. Các ảo  giác  khác  cũng  có  thể  xuất  hiện  nhưng  hiếm  gặp  hơn. Ngoài ra còn có thể gặp hội chứng tâm  thần  tự  động như:  tư  duy  vang  thành  tiếng, tư duy bị áp đặt, bị đánh cắp hoặc tri giác sai thực tại và giải thể nhân cách.

Cảm xúc ít cùn mòn hơn các thể khác, nhưng thường gặp cảm xúc không thích hợp như: cáu gắt, giận dữ, sợ hãi và nghi ngờ. Ở thể này các triệu chứng âm tính thường xuất hiện muộn và không sâu sắc.

Tâm thần phân liệt thể paranoid  có  thể  thuyên  giảm  từng  phần  hoặc  hoàn toàn hoặc tiển triển thành mạn tính. Thời gian  khởi  đầu  có  khuynh  hướng  chậm hơn các thể khác.

F20.1. Tâm thần phân liệt thể thanh xuân:

Thể bệnh này thường xuất hiện ở lứa tuổi trẻ  từ 15 –  25 tuổi, nổi bật  là hội chứng kích động thanh xuân biểu hiện chủ yếu là rối loạn hành vi như: hành vi  lố  lăng, si dại hoặc cảm xúc hời hợt và lúc khóc, lúc cười  hoặc hát và nói trêu chọc những người xung quanh. Tư duy không liên quan, rời rạc, đặt ra chữ mới  và  giả giọng địa phương. Hành  vi  tác  phong  điệu bộ,  nhăn  mặt,  nheo  mắt,  tinh  nghịch và quậy phá. Có thể có các  hoang tưởng, ảo  giác  thoáng qua và  rời rạc, cũng có thể có hội chứng căng trương lực kích động hoặc bất động  lẻ  tẻ.  Người  bệnh  có khuynh hướng sống cô độc, cảm  xúc  và  hành vi  thiếu mục  đích, các  triệu chứng  âm tính xuất hiện sớm,  tiến triển nhanh  đặc  biệt là ý chí giảm sút và  tiên lượng  xấu.

F20.2. Tâm thần phân liệt thể căng trương lực:

Thể bệnh này thường xuất  hiện đột  ngột  và  cấp tính, giai  đoạn đầu thay đổi  tính tình, ít nói, ít hoạt động và đột ngột xuất hiện kích động dữ  dội  giống xung động, định hình, bối rối, hoạt động không có mục  đích và  không  chịu ảnh  hưởng các kích thích bên ngoài. Người bệnh cũng  bất  ngờ  chuyển  sang  bất  động, sững  sờ, cứng như gỗ, chống đối không nói và không ăn. Dáng điệu và tư thế không tự nhiên có thể duy trì trong một thời gian dài  như:  triệu chứng gối  không khí, uốn  sáp, tạo hình hoặc vâng lời tự động hoặc  phủ  định  hoặc  chống  đối  hoặc  làm ngược lại chỉ dẫn của người khác. Hội  chứng  căng  trương lực  cũng  có  thể xuất hiện với trạng thái ý thức  mê  mộng kèm  theo  những  ảo  giác  sinh động,  nhưng  các triệu chứng âm tính xuất hiện muộn hơn.

F20.3. Tâm thần phân liệt thể không biệt định:

Bao gồm các trạng thái đáp ứng các tiêu chuẩn chung của bệnh TTPL, nhưng không tương ứng với bất cứ  thể  nào  đã  mô  tả ở trên. Biểu hiện lâm sàng không  đặc trưng cho một thể bệnh nào rõ rệt.

F20.4. Tâm thần phân liệt thể trầm cảm sau phân liệt:

Trạng thái trầm cảm kéo dài xuất hiện sau  một  quá  trình  phân  liệt,  một  số triệu chứng phân liệt vẫn tồn tại nhưng không còn chiếm ưu thế, các triệu chứng dương tính mờ nhạt, hội chứng trầm cảm không trầm  trọng và  không  mở  rộng, nhiều trường hợp khó xác định trạng thái  trầm cảm do  các  thuốc  an thần kinh và  các triệu chứng âm tính vẫn còn tồn tại. Trạng  thái trầm cảm sau phân liệt thường  đáp ứng kém với các thuốc chống trầm cảm và nguy cơ tự sát cao.

F20.5. Tâm thần phân liệt thể di chứng:

Thể di chứng là một giai đoạn tiến triển mạn  tính, các triệu chứng dương tính  của giai đoạn toàn phát mờ nhạt không  ảnh  hưởng  đến  cảm  xúc  và  hành  vi.  Những triệu chứng âm tính nổi bật  lên hàng  đầu, biểu hiện bằng  hoạt  động kém, cảm xúc cùn mòn, bị động trong  cuộc  sống,  thiếu  sáng  kiến,  ngôn  ngữ  nghèo nàn, kkông quan tâm chăm sóc bản thân và hoạt động xã hội và không mất trí.

F20.6. Tâm thần phân liệt thể đơn thuần:

Bệnh bắt đầu bằng các triệu chứng âm tính là chủ yếu như:  giảm sút khả năng học tập và công tác, không thích ứng được với xã hội, cảm xúc cùn mòn, ý chí suy giảm dần, các triệu chứng  dương  tính  như:  hoang  tưởng,  ảo  giác  không  rõ  ràng và lẻ tẻ. Các triệu chứng âm tính ngày càng sâu sắc,  giao  tiếp xã hội  ngày càng nghèo nàn, người bệnh sống lang thang, thu mình lại và sống không có mục đích.

Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt.

Tiêu chuẩn chẩn đoán ttpl theo icd-10 năm 1992:

a/ Tư duy vang thành tiếng, tư duy bị áp đặt hay bị đánh cắp và tư duy bị phát  thanh.

b/ Các hoang tưởng bị  kiểm  tra,  bị  chi  phối  hay bị  động có liên quan rõ  rệt với vận động thân thể hay các  chi  hoặc  có  liên quan  với  những  ý  nghĩ,  hành  vi hay cảm giác đặc biệt và tri giác hoang tưởng.

c/ Các ảo thanh bình luận thường  xuyên  về  hành  vi  của  bệnh  nhân  hay  thảo luận với nhau về bệnh nhân hoặc các  loại  ảo  thanh  khác  xuất  hiện từ một bộ phận nào đó của cơ thể.

d/ Các hoang tưởng dai dẳng không thích hợp về mặt  văn  hoá  và  hoàn  toàn không thể có được tính đồng nhất về  tôn giáo  hay  chính trị  hoặc  những  khả  năng và quyền lực siêu nhiên như: khả năng điều khiển thời tiết hoặc đang tiếp xúc với người ở thế giới khác.

e/ Ảo giác dai dẳng bất cứ loại  nào, có khi  kèm theo  hoang tưởng thoáng qua  hay chưa hoàn chỉnh, không có  nội  dung cảm xúc  rõ  rệt hoặc  kèm theo  ý tưởng quá dai dẳng hoặc xuất hiện hàng ngày trong nhiều tuần hay nhiều tháng.

f/ Tư duy gián  đoạn, hay  thêm từ khi  nói, đưa đến tư duy không liên quan hay  lời nói không thích hợp hoặc ngôn ngữ bịa đặt.

g/ Tác phong căng trương lực như: kích động, giữ nguyên dáng,  uốn sáp,  phủ định và không nói hoặc sững sờ.

h/ Các triệu chứng âm tính như: vô cảm rõ rệt, ngôn ngữ nghèo  nàn,  đáp ứng  cảm xúc cùn mòn hoặc không thích hợp  thường  dẫn  đến cách li xã hội hoặc  giảm sút hiệu suất lao động và các triệu chứng trên phải  rõ  ràng  là không do  trầm cảm hay thuốc an thần gây ra.

i/ Biến đổi thường  xuyên  và  có  ý  nghĩa  về  chất  lượng toàn diện của tập tính cá nhân biểu hiện như: mất  thích thú, thiếu mục  đích, lười  nhác, thái  độ  mải  mê suy nghĩ về bản thân và cách li xã hội.

Yêu cầu chẩn đoán bệnh TTPL theo ICD-10:

Phải có ít nhất 1 triệu chứng rõ  ràng  hoặc  phải  có tối  thiểu 2  triệu chứng (nếu các triệu chứng đó ít rõ ràng) thuộc các nhóm từ a đến d kể trên.

Nếu là các nhóm từ e đến i thì phải có ít nhất là 2 nhóm triệu chứng.

Thời gian của các triệu chứng phải tồn tại ít nhất là 1 tháng.

Không được chẩn đoán TTPL nếu có triệu chứng trầm cảm hoặc  hưng  cảm  mở rộng xuất hiện trước các triệu chứng nói trên.

Không được chẩn đoán TTPL khi có bệnh não rõ rệt hoặc bệnh nhân đang ở trong trạng thái nhiễm độc ma tuý.

Không được chẩn đoán TTPL khi có bệnh ĐK  và  các bệnh tổn thương  thực  thể não khác.

Tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt theo dsm-iv năm 1994:

Nhóm A: có ít nhất là 2 trong số các  triệu chứng sau và mỗi triệu chứng phải biểu hiện rõ rệt trong thời gian là 1 tháng (hoặc ít hơn nếu được điều trị tốt):

1/ Hoang tưởng.

2/ Ảo giác.

3/ Ngôn ngữ thanh xuân.

4/ Hành vi căng trương lực hoặc thanh  xuân  rõ rệt. 5/ Các triệu chứng âm tính.

Ghi chú: chỉ cần 1 triệu chứng duy nhất trong tiêu chuẩn A nếu như các hoang tưởng là kì dị hoặc ảo thanh bình  phẩm  về  các  hành  vi  hoặc  ý  nghĩ  của  bệnh nhân hoặc 2 hay nhiều giọng nói trò chuyện với nhau.

Nhóm B: mất chức năng hoạt  động nghề  nghiệp  và  xã hội trong một thời gian dài sau khi khởi phát bệnh, một hay nhiều lĩnh vực  quan trọng khác  như: việc làm, quan hệ với mọi người hoặc giảm tự chăm sóc bản thân so với trước khi bị bệnh.

Nhóm C: các dấu hiệu tổn thương tiếp theo bền vững ít nhất là 6 tháng (hoặc ít hơn nếu được điều trị), phải thoả mãn với tiêu chuẩn A (triệu chứng của pha hoạt động) và các triệu chứng của pha tiền triệu hoặc  pha di  chứng có thể  chỉ là các  triệu chứng âm tính hoặc ít nhất có 2 triệu chứng ở tiêu chuẩn A với mức độ nhẹ.

Nhóm D: loại trừ rối loạn phân liệt cảm xúc  hoặc  rối  loạn  cảm  xúc  hoặc không có một giai đoạn trầm cảm điển hình  hoặc  hưng  cảm  hoặc  pha trộn xuất hiện đồng thời với các triệu chứng của pha  hoạt  động,  tổng  số  thời  gian  của chúng phải ngắn hơn khi so với pha hoạt động và pha di chứng.

Nhóm E: loại trừ một rối loạn  do  thuốc  hoặc  một  bệnh  thực  tổn và không phải do hậu quả của nghiện ma tuý hoặc một bệnh cơ thể gây ra.

Nhóm F: khi tồn tại một tiền sử bệnh tự kỉ hoặc rối loạn chậm phát triển bền  vững thì chẩn đoán tâm thần phân  liệt  chỉ  đặt  ra khi các triệu chứng hoang tưởng,  ảo giác thể hiện một cách rõ nét và tiến triển trong thời gian ít  nhất  là 1  tháng (có thể ít hơn nếu được điều trị).

Chẩn đoán phân biệt.

Trạng thái suy nhược thần kinh: trong giai đoạn  tiền  triệu  của  TTPL  có nhiều triệu chứng suy  nhược  thần  kinh khác  nhau,  nhưng  thường phát  sinh không rõ lí do.

Rối loạn stress cấp: có các  sang chấn tâm lí  đủ mạnh.  Bệnh cảnh lâm sàng chủ yếu tập trung vào yếu tố  stress, không  có  các  triệu chứng  âm  tính  và  thời gian tồn tại các triệu chứng dưới 1 tháng.

Rối loạn khí sắc: chủ yếu là rối loạn lưỡng cực, các triệu chứng  hưng cảm hoặc trầm cảm có thể giống triệu chứng TTPL, cần phải căn cứ vào  các  dấu  hiệu  đặc trưng của rối loạn khí sắc thì có thể phân biệt được.

Các rối loạn nhân cách:  thường không có  triệu chứng loạn thần,  nếu có  thì chỉ tạm thời hoặc thứ phát và bệnh ổn định lâu dài không tiến triển thêm.

Các rối  loạn hoang  tưởng:  thường  là các hoang tưởng có hệ thống, không kì dị và thời gian kéo dài ít nhất 6 tháng,  nhân  cách  ít  biến  đổi  và  còn  làm  việc tương đối tốt, không có ảo giác và các  triệu  chứng  phân  liệt  khác,  khởi  phát muộn ở người lớn tuổi.

Tiến triển của bệnh tâm thần phân liệt.

Nếu không được phát hiện sớm và điều trị  hợp lí, bệnh thường tiến triển mạn tính với sự mất mát tăng dần  và  có  giai  đoạn cấp,  các triệu chứng dương tính rầm rộ, nhưng sau một thời  gian các  triệu chứng dương tính giảm  dần  và  thay thế  vào đó là các triệu chứng âm tính ngày  càng  sâu sắc  hơn.  Việc  biến đổi  nhân  cách  còn tùy thuộc vào kiểu tiến triển và mức độ của bệnh.

Theo R. Murray (2000), có 4 nhóm tiến triển sau:

Nhóm 1: có duy nhất một thời kì bệnh và khỏi  bệnh  hoàn  toàn,  số  này  chiếm không nhiều (22%).

Nhóm 2: có nhiều cơn tái phát và giữa các cơn có biểu hiện nhẹ nhàng hoặc không có biểu hiện thiếu sót tâm thần, số này chiếm tỉ lệ là 35%.

Nhóm 3: có  nhiều cơn tái phát, giữa các cơn có biểu hiện thiếu sót tâm thần  rõ nét, số này chiếm 8%.

Nhóm 4: sau mỗi đợt phát để lại  di  chứng  trong các  hoạt  động tâm thần ngày càng nhiều, số này chiếm 35%.

Theo ICD-10 (1992), để đánh giá tiến triển cần phải  có  thời  gian theo  dõi tối thiểu là 1 năm và bao gồm có 7 kiểu tiến triển:

Tiến triển liên tục.

Tiến triển từng giai đoạn với thiếu sót tăng dần.

Tiến triển từng giai đoạn với thiếu sót ổn định.

Tiến triển từng giai đoạn với sự thuyên giảm.

Thuyên giảm không hoàn toàn.

Thuyên giảm hoàn toàn.

Các kiểu tiến triển khác và có thời kì theo dõi dưới 1 năm.

Theo DSM-IV (1994), cũng cần theo dõi tối thiểu 1 năm sau pha hoạt động nhằm xác định kiểu tiến triển và bao gồm có 6 kiểu tiến triển:

Tiến triển theo từng giai đoạn với  thời kì  thuyên giảm hầu như không tồn tại các di chứng trong hoạt động tâm thần.

Tiến triển theo từng giai đoạn với các di chứng rõ nét, chủ yếu là các triệu chứng âm tính.

Tiến triển liên tục trong quá trình theo dõi suốt 1 năm có các biểu hiện loạn thần không thuyên giảm và có nhiều triệu chứng âm tính.

Tiến  triển chỉ một giai  đoạn, lui bệnh  không  hoàn toàn.

Tiến  triển chỉ một giai  đoạn, nhưng  lui bệnh  hoàn toàn.

Các kiểu tiến triển khác.

Điều trị.

Liệu pháp hoá dược:

Hoá dược là liệu pháp thông dụng và có hiệu quả nhất trong điều trị bệnh  TTPL. Việc lựa chọn từng loại thuốc và liều lượng thuốc phù hợp với  triệu chứng lâm sàng, thể bệnh và khả  năng  dung  nạp  của mỗi  cá thể. Thông  thường người  ta sử dụng chủ yếu là các thuốc an thần kinh, nhưng các thuốc bình thần, các thuốc chống trầm cảm và các thuốc điều hoà khí sắc cũng được sử dụng.

Chú ý sử dụng các loại thuốc khác:

Sử dụng các thuốc chống trầm cảm cần thận trọng, vì có thể hoạt hoá các ảo giác và hoang tưởng dẫn đến tự sát.

Các thuốc điều hoà khí sắc có tác dụng  tốt  trong dự phòng các đợt tái phát, nhất là các thể rối loạn cảm xúc.

Các thuốc thuốc chống Parkinson cũng cần được sử dụng hợp lí.

Liệu pháp sốc điện:

Ngày nay, các chỉ định của liệu pháp sốc điện đã thu hẹp một cách đáng  kể,  song đối với bệnh TTPL còn được chỉ định trong những trường hợp sau:

TTPL thể căng trương lực.

Trạng thái kích động mạnh của TTPL.

Các bệnh nhân có hành vi tự sát.

Các trường hợp kháng điều trị nói chung.

Liệu pháp tâm lí – xã hội:

Trước 1960, do tác dụng hạn chế của các liệu pháp tâm lí cá nhân nên việc sử dụng liệu pháp tâm lí – xã hội đối với TTPL  không được  chú ý nhiều. Vào  những  năm 1980, cùng với hiệu quả của  việc  sử  dụng thuốc  chống tâm thần,  nhiều nhà lâm sàng xem liệu pháp tâm lí – xã hội như là phương tiện hỗ trợ dễ chịu.

Về cơ bản, liệu pháp tâm lí – xã hội đối với TTPL được chia thành 3 dạng:

Can thiệp gia đình.

Luyện tập kĩ năng.

Phục hồi nhận thức.

Can thiệp gia đình đã được  nghiên  cứu nhiều và được  sử dụng có hiệu quả cả  ở thời kì đầu và thời kì sau. Luyện tập kĩ  năng  xã  hội  cũng  có  nhiều hứa  hẹn. Riêng lợi ích của phục hồi nhận thức thì chưa rõ ràng.

Nghiên cứu của May P.A.(1968) cho thấy: thuốc chống tâm  thần  và  thuốc  chống tâm thần kết hợp với liệu pháp tâm lí đạt kết quả cao  hơn so với  ECT, còn ECT cao hơn so với liệu pháp môi trường và liệu pháp tâm lí riêng biệt.

Cho đến nay, nhiều tác giả đã khẳng  định:  các  liệu pháp  tâm  lí  xã  hội  giúp kéo dài thời gian ổn định, hạn chế số  lần  tái  phát  cũng như mức  độ cấp  tính và giảm liều thuốc củng cố ngoại trú đối với bệnh nhân TTPL.