Nội dung

Rối loạn tâm thần do nhiễm độc

Đặc điểm chung.

Các chất độc thâm nhập  vào  cơ  thể  bằng  nhiều  đường  khác  nhau,  tác  động lên hệ thần kinh trung ương,  gây  ra tổn thương thần kinh và  các  rối loạn tâm thần rất đa dạng, cấp tính hoặc kéo dài.

Các triệu chứng rối loạn tâm thần phụ thuộc vào  nhiều yếu tố  khác  nhau như: loại chất độc, liều lượng, thời gian, mức độ nhiễm độc và các yếu tố mang tính cá  thể như: nhân cách, thể tạng,  sức  đề  kháng,…  Rối  loạn tâm thần do nhiễm độc có xu hướng ngày càng gia tăng do sự  phát  triển của nền công nghiệp,  do  sử  dụng  rộng rãi các hoá chất trong nông nghiệp như: phân bón, thuốc diệt côn trùng, diệt chuột, do sử dụng nhiều hoá chất trong  đời  sống,  trong  sinh  hoạt,  trong  chữa bệnh và trong ăn uống,…

Nhiễm độc cấp tính thường xuất hiện đột ngột với các triệu chứng rối loạn ý  thức, mất định hướng, rối loạn tri giác và tư duy, rối loạn trí nhớ và  cảm xúc,…  Nhiễm độc mạn tính thường diễn ra từ từ, làm giảm sút tiệm tiến trí nhớ, trí năng, biến đổi nhân cách và sa sút trí tuệ.

Nhiễm độc khi sử dụng các hoá dược với các mục đích khác  nhau  ngoài việc chữa bệnh hoặc do sử dụng  nhầm  thuốc  với  các  liều  lượng không thích hợp hoặc do tiếp xúc với các hoá chất trong hoạt động nghề nghiệp; thường gặp là nhiễm các kim loại nặng như: nhiễm độc chì ở công nhân xăng dầu,  nhiễm độc các  loại  khí  độc như: CO, CO2, nhiễm độc các hoá chất dùng trong nông nghiệp để diệt chuột, diệt côn trùng như: wolfatox, sulfua kẽm,… cũng đều có thể gây rối loạn tâm thần. Ngoài ra người ta còn liệt  kê  vào  nhóm  rối loạn này cả các loại rối loạn tâm thần do sử dụng rượu, ma túy, hoặc do sử dụng  các thuốc hướng tâm thần với  các mục đích khác nhau. Trong Bảng  phân  loại  bệnh Quốc  tế  lần thứ 10 (ICD  – 10), người ta tách nhóm các rối loạn này thành một mục riêng và gọi  là “Các  rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất tác động tâm thần” (mục F10 – F19). Một số tác giả khác tách nhóm các rối loạn này ra và gọi là “Hội  chứng phụ thuộc  các  chất  tác động tâm thần”.

Rối loạn tâm thần do nhiễm độc hoá dược.

Rối loạn tâm thần do nhiễm độc hoá dược chung:

Việc sử dụng hoá dược để điều trị  các  loại  bệnh khác  nhau  trong Y học, trên cơ sở áp dụng các tiến bộ khoa học của nhân loại đã đem lại những hiệu quả rất

to lớn. Tất cả những loại  hoá dược  khi  được sử dụng với  các liều lượng thích hợp có tác dụng chữa bệnh. Nếu sử dụng hoá dược không thận trọng thì  có thể gây ra trạng thái nhiễm độc  cấp tính hoặc  mạn  tính,  thường  gặp  là nhiễm độc cấp tính  rất đa dạng và mỗi  trạng  thái  này  có  biểu  hiện rối loạn tâm thần và  cơ thể  cũng rất khác nhau.

Trong nhiễm độc cấp tính mức độ  nặng,  rối  loạn ý thức bị loại trừ xen kẽ  với rối loạn  ý  thức  bị  mù mờ, thường gặp  trạng thái  ý thức  hoàng hôn hoặc mê  sảng ở giai đoạn trước và sau hôn mê. Các  trạng thái  bệnh lí  này  thường kèm theo với  các biểu hiện rối loạn tâm thần khác  như:  trạng thái  bồn chồn, đứng ngồi  không yên, kích động vận động dữ dội, khí  sắc  căng thẳng,  lo  lắng,  sợ  hãi,  có  các  ảo giác và hoang tưởng đa dạng, chú ý, trí nhớ giảm sút.

Đôi khi cũng gặp trạng thái nhiễm độc mạn tính do  quá  trình dùng  thuốc  kéo dài, do sự kém thích ứng của cơ thể, do khả năng dung nạp và tích lũy thuốc cao. Ngoài các rối loạn  về  cơ thể, người  ta có thể  gặp các  rối loạn tâm thần. Biểu hiện rõ nét nhất là trạng thái  suy  nhược  thần kinh,  trầm cảm nhẹ  hoặc  hưng phấn nhẹ tùy thuộc vào từng loại hoá dược khác nhau  và  cũng  có  thể  gặp  những thay đổi nhân cách, thay đổi tính nết, cảm xúc dễ bị kích thích và hay  xúc  động, xuất  hiện  các hoang tưởng  và  ảo  giác  phù  hợp  với  trạng thái  cảm xúc  của người  bệnh,  chú ý và trí nhớ đều giảm làm cho  người  bệnh đãng trí và  hay quên do  quá trình ghi  nhận kém.

Rối loạn tâm thần do nhiễm độc các hoá dược tâm thần:

Các hoá dược sử dụng trong lâm sàng tâm  thần gọi  là thuốc  hướng tâm  thần. Các thuốc này được phân chia thành những nhóm khác nhau như thuốc trấn tĩnh (neuroleptic), thuốc an tĩnh (tranquillisants),  thuốc  ngủ  nhóm  barbituric,  thuốc giải ức chế tâm thần (anapsycholeptic) và thuốc gây loạn thần (dyspsycholeptic). Ngoài ra người ta còn liệt  kê  vào  nhóm  thuốc  hướng tâm thần cả các  thuốc  gây mê (narcotic). Khi sử dụng các loại thuốc trên cần chú ý đến 2  tác  dụng  không mong muốn đó là nhiễm độc thuốc và nghiện thuốc.

Nhiễm độc thuốc:

Nhiễm độc thuốc bao gồm 2  trạng thái:  nhiễm độc  cấp tính và  nhiễm độc  từ từ. Nhiễm độc thuốc cấp tính thường gặp ở người  bệnh sử dụng ngoài  mục  đích điều trị. Có thể do  sử dụng nhầm thuốc,  nhầm  hàm  lượng  thuốc,  đường  vào không thích hợp gây ra trạng thái nhiễm độc cấp. Trong thực tế cũng có thể gặp  nhiễm độc cấp do người bệnh có ý định tự sát bằng thuốc.

Trường hợp nhẹ: có thể thấy người  bệnh  ngủ  sâu,  không  có  biểu hiện rối loạn hô hấp và tim mạch,  phản  xạ  gân  xương có  thể  giảm,  đôi khi  bồn chồn, vật vã.

Trường hợp nặng: bệnh nhân ngủ rất sâu,  bán  hôn  mê  hoặc  hôn  mê.  Rối loạn nhịp thở, mạch nhanh, huyết áp giảm, đồng tử co nhỏ, mất các phản xạ gân  xương, mất phản xạ đồng tử, rối loạn cơ vòng, rối loạn nước  –  điện giải, rối loạn  thân nhiệt và có thể tử vong.

Nhiễm độc thuốc kéo dài thường xuất hiện từ  từ  sau  một  thời  gian  dùng  thuốc. Thời gian dài hay  ngắn  tùy  thuộc  vào  liều  thuốc,  đường  vào,  khả  năng dung nạp thuốc, khả năng thích ứng của  cơ  thể,  số  lần  dùng  thuốc,  cách  dùng phối hợp thuốc,… Nhiều tác giả cho rằng nhiễm độc  kéo  dài  là  do  sự  tích luỹ thuốc của cơ thể, do bệnh thực  tổn kèm theo  và  do  khả năng thải  trừ kém. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là trạng thái bồn chồn, đứng ngồi không yên, hội chứng Parkinson do thuốc, rối loạn vận động, đi lại nhiều, thậm chí có  những cơn kích  động ngắn trong trong phạm vi hẹp  và  đi  lại  loạng  choạng,  dễ  ngã,  vẻ  mặt  đờ đẫn, cảm xúc căng thẳng, dễ  xúc  động và  hay  khóc.  Sức  chú ý và  trí  nhớ  giảm,  đôi khi có trầm cảm và  lo  âu  nhưng  không điển hình,  kèm theo  các  rối  loạn cơ thể ở các mức độ khác nhau  như:  mạch  nhanh,  huyết  áp  dao  động,  thân  nhiệt tăng, rối loạn nước-điện giải và ăn uống kém.

Phụ thuộc thuốc:

Các loại thuốc hướng tâm thần hay gây nghiện đó là các bacbituric tác dụng nhanh, các thuốc kích thích giải ức chế tâm thần (amphetamin, maxiton, cafein,…); Các thuốc an tĩnh loại tranquillisants (seduxen, meprobamat, valium, tranxen, lexomil, rivotril,…); Các thuốc gây loạn thần (LSD25, mescalin gây  ảo  giác,…). Trước đây người ta chỉ dừng lại ở khái niệm quen thuốc  hay  phụ  thuộc  tâm  lí, nhưng hiện nay người ta thấy rằng khi ngừng thuốc đột ngột  thấy  xuất  hiện  hội chứng cai với các mức độ khác nhau tùy  từng  loại  thuốc.  Như  vậy  là  các  loại thuốc này có gây nghiện (trạng thái phụ thuộc thực thể).

Biểu hiện của hội chứng cai khá rõ  rệt, sau khi  cắt  thuốc  24  – 36 giờ, xuất hiện các triệu chứng: mệt mỏi, bồn  chồn,  run,  lo âu, mất  ngủ, tăng huyết  áp khi  nằm hoặc giảm huyết áp khi dậy đột ngột,  có  các  cơn co  giật  kiểu ĐK  và  kèm theo các rối loạn tâm thần đa dạng. Thời gian xuất hiện của hội chứng cai kéo dài 7 – 10 ngày hoặc vài tuần và điều trị chủ yếu là xử  trí  hội  chứng  cai  cấp,  bồi  dưỡng thể trạng và tâm lí liệu pháp.

Rối loạn tâm thần do  nhiễm độc các hoá chất dùng  trong công nghiệp  và nông nghiệp.

Nhiễm độc  các  hoá chất  sử dụng  trong công nghiệp và  nông nghiệp bao  gồm  2 trạng thái bệnh lí nhiễm độc cấp tính và nhiễm độc mạn tính.

Trạng thái nhiễm độc cấp tính  thường  do  vô  tình hay hữu ý sử dụng thái  quá  các chất có hại cho  cơ thể  như:  nhiễm độc cấp khí  CO ở người  làm nghề  đốt lò  (lò gạch ngói, sành sứ, lò nung vôi, lò  thủy tinh, lò  luyện sắt thép,…) hoặc nhiễm  độc cấp tetraetyl chì ở công nhân cọ rửa bể xăng dầu  hoặc  nhiễm  độc  cấp  wolfatox do tiếp xúc không có phương tiện bảo vệ. Trạng thái  này gây ra các  rối loạn thực tổn nghiêm trọng và đe doạ đến tính mạng người bệnh nhiều hơn là các  biểu hiện rối loạn tâm thần.

Trạng thái nhiễm độc mạn tính thường gặp hơn cả là do nghề nghiệp phải  tiếp  xúc thường xuyên với các chất có hại  cho  cơ thể  hàng ngày.  Tuy  liều lượng chất độc vào cơ thể không lớn nhưng kéo dài,  gây  tích  luỹ  dần  dần  và tổn  thương nhiều nội tạng trong cơ thể, trong đó có hệ thần kinh  trung ương và kéo theo các triệu chứng rối loạn thần kinh và tâm thần đa dạng.

Các rối loạn tâm thần do nhiễm độc kim loại nặng:

Nhiễm độc chì:

Chì là vật liệu được dùng trong nhiều ngành công nghiệp ở nước  ta,  do  đó  nhiễm độc chì thường gặp nhất ở công nhân xăng dầu, công nhân  đúc  chữ và  xếp  chữ ở các xưởng in, công  nhân  sửa chữa bình  ắc  qui,…  Nhiễm  độc  chì  thường qua đường hô hấp (do bụi chì), đường  tiêu hoá.  Nhiễm  độc chì cấp tính có các  triệu chứng: mê sảng, ảo thị giác,  hoang  tưởng  với  nội  dung bị  đầu độc, bị  truy hại.

Trong giai đoạn đầu của nhiễm độc chì mạn tính  có  biểu  hiện  hội  chứng giống suy nhược thần kinh và sau đó  xuất  hiện hội  chứng trầm cảm hoặc vô  cảm,  rối loạn trí nhớ nghiêm trọng, giảm sút chú ý và đôi khi gặp cả sa sút trí tuệ.

Đồng thời với rối  loạn tâm thần, ở các  bệnh nhân này còn có những rối loạn  thực tổn rất nặng như: suy thận,  suy gan do  nhiễm độc chì, viêm da,  viêm quanh răng, viên đa dây thần kinh, teo cơ, liệt các chi, ức  chế  tuỷ xương. Đến giai đoạn cuối rất khó phân biệt giữa nguyên nhân và  kết  quả  của rối  loạn tâm thần  và  rối loạn thực tổn, các triệu chứng rối loạn tâm thần và rối loạn thực tổn đều rất nặng, chúng hỗ trợ và chuyển hoá lẫn nhau làm cho  cả 2  nhóm  triệu chứng cùng trầm trọng và cuối cùng dẫn đến tử vong.

Nhiễm độc thuỷ ngân:

Nhiễm độc thuỷ ngân là bệnh nghề nghiệp do phải tiếp xúc  với  thuỷ ngân ở những công nhân sản xuất y cụ (sản xuất  nhiệt  kế,  huyết  áp  kế),  làm  nghề  mạ vàng, mạ bạc, làm việc  trong  các  labo  có  thuỷ  ngân  và  sử dụng  các  khoáng chất có thuỷ ngân để làm thuốc  không  đúng  qui  cách. Biểu hiện sớm  nhất  do  nhiễm độc thuỷ ngân là triệu chứng run  ngày  càng  tăng(run  mi  mắt,  run môi, run lưỡi, run ngón chân, ngón tay…), đi lại loạng choạng, nói  năng  khó  khăn  và  yếu  cơ. Trạng thái tâm thần dễ bị  kích thích, dễ  xúc  động, hay  khóc, mất  ngủ  dai  dẳng và  có nhiều ác  mộng.  Làm  việc  dễ  chán  nản,  nhút  nhát  thiếu tự tin, đôi khi  lo  lắng và sợ hãi hoặc bùng nổ giận dữ. Một số trường hợp khác  thì lờ đờ, vô  cảm, mất  tự chủ trong hành vi, giảm trí nhớ  rõ  rệt. Bệnh tiến triển nặng thì  các  rối loạn thực  tổn càng rõ rệt như: tổn thương gan, thận, ống tiêu hoá và có nguy  cơ dẫn đến tử vong.

Các rối loạn tâm thần do nhiễm độc các hoá chất diệt côn trùng:

Hiện nay nhiễm độc các hoá chất diệt  côn trùng  và  phân  bón sử dụng trong nông nghiệp là vấn đề tương đối phổ biến.  Các  loại  hoá chất  này  thường  là lân  hữu cơ.

Nhiễm độc cấp tính:

Giai đoạn đầu: bệnh nhân mệt  mỏi, nhức  đầu,  chóng mặt, tăng  tiết  nước  bọt, buồn nôn và nôn, ỉa chảy, khó thở, đồng tử co  nhỏ,  mạch nhanh, huyết áp có  thể tăng cao.

Giai đoạn sau: nhiễm độc tiến triển nặng lên rất nhanh do nồng độ enzym cholinesteraza trong máu giảm đột ngột, người bệnh  run  các  thớ  sợi  cơ,  mất thăng bằng, ý thức rối  loạn từ mê  sảng và  nhanh  chóng chuyển sang hôn mê, khó  thở nặng do phù phổi cấp và nguy cơ tử vong cao.

Nhiễm độc mạn tính:

Nhiễm độc mạn tính  các  hoá  chất  diệt  côn trùng  và  phân bón thường xảy ra do người  bệnh tiếp xúc  thường  xuyên  với  chất  độc  do  nghề  nghiệp  và  việc phòng hộ lao động không bảo đảm. Sau mỗi lần tiếp xúc với  hoá chất độc  người bệnh cảm thấy khó chịu, mệt mỏi, đau đầu, chóng mặt  và  buồn  nôn.  Các  triệu chứng này qua đi nhanh do  bệnh  nhân  ngừng  tiếp xúc  với  hoá chất độc và  nhiều lần tiếp xúc như vậy bệnh nhân  sẽ  có  biểu hiện rối loạn thần kinh-tâm thần và các rối loạn thực tổn tiến triển ngày càng trầm trọng.

Sau mỗi lần tiếp xúc với hoá chất độc, người  bệnh có các biểu hiện giống như giai đoạn đầu của nhiễm độc cấp tính,  các  triệu chứng giống suy nhược  thần kinh và suy nhược cơ thể xuất hiện ở những lần tiếp xúc sau kéo dài hơn trước, một số triệu chứng chỉ thuyên giảm chứ không mất  hoàn toàn khi  đã ngừng  tiếp xúc  với chất độc.

Các tổn thương gan, thận: thường rất  chậm,  nhưng  cuối  cùng  vẫn  dẫn  đến suy chức năng thận. Các dòng tế bào  máu  đều  giảm  do  ức  chế  tuỷ  xương  và nhiều trường hợp dẫn đến suy tủy không hồi phục làm cho  triệu chứng của bệnh  ngày càng phức tạp hơn.

Tổn thương hệ thần kinh trung ương: xuất hiện các  triệu chứng khá đa dạng như: tổn thương dây thần kinh ngoại  vi,  tổn  thương  các  nhân  xám  dưới  vỏ và  thoái hoá ở vỏ não và biểu hiện rối loạn tâm thần ngày càng rõ ràng đồng thời với những rối loạn thực tổn khác. Rối loạn cảm  xúc  xuất  hiện  sớm  nhất  và  tồn tại trong suốt thời gian bị bệnh và các rối loạn trầm cảm và lo âu rất dai  dẳng. Có  thể  gặp ảo thị giác hoặc ảo thính giác thật,  đôi  khi  gặp  cả  ảo  xúc  giác  và  ảo  khứu giác, nhưng chúng chỉ tồn  tại  nhất  thời  và  dễ  thay  đổi. Hoang tưởng bị  đầu độc, bị truy hại cũng xuất hiện thường xuyên cùng với  sự giảm  sút  chú ý và  trí  nhớ  ở  các mức độ khác nhau và không  đồng nhất.  Nguy  cơ tử vong do  rối loạn thực tổn khá cao và tiến triển nhanh nên ít thấy các trường hợp tiến triển đến sa sút trí tuệ. Ngoài ra, trong đời sống hàng  ngày  người  ta còn lưu ý đến các  rối  loạn tâm thần do nhiễm độc thực phẩm như: ăn phải nấm độc, sắn độc,  thịt  cóc  và một số thảo mộc như hạt mã tiền,…