Nội dung

Biểu đồ dạng sóng thở máy ở trẻ sơ sinh: các tình trạng khác

Rò rỉ ống nội khí quản     

Bởi vì các ống nội khí quản có bóng chèn không được  sử dụng ở trẻ sơ sinh,  luôn luôn có một số mức độ rò rỉ khí xung quanh ống nội khí quản. Rò rỉ có thể được  phát hiện bằng đồ họa, sử dụng dạng sóng hoặc phân tích vòng lặp. Hình 6.1 là dạng sóng thể tích khí lưu thông (Vt) thể hiện sự rò rỉ ống nội khí quản lớn. Thông thường, phần giảm dần của dạng sóng đạt đến đường cơ sở bằng không khi thở ra. Tuy nhiên, khi đối mặt với rò rỉ, dạng sóng không đạt được đường cơ sở và có thể có sự xuất hiện tương tự như dạng sóng áp lực với áp lực dương cuối kỳ thở ra (PEEP).

 

Hình 6.1 Rò rỉ ống nội khí quản lớn (a, sơ đồ; b, thực tế). Thể tích sóng là bất thường; nó không đạt được đường cơ sở bằng không (mũi tên)

Rò rỉ cũng ảnh hưởng đến các ổ áp lực (P-V) và lưu lượng (F-V). Hình 6.2 cho thấy một vòng lặp P-V từ một em bé bị rò rỉ ống nội khí quản lớn. Nhánh thở ra dừng lại trước khi đạt đến giá trị PEEP (đường thẳng liền mạch là một hình nhiễu được vẽ bởi màn hình).

 

Hình 6.2 Rò rỉ ống nội khí quản lớn (a, sơ đồ; b, thực tế). Vòng lặp P-V không quay trở lại trục x (thể tích 0). Đường thẳng nối đầu cuối của vòng lặp là một hình nhiễu (mũi tên)

Hình 6.3 là vòng F-V của cùng bệnh nhân. Ở đây, lưu lượng khí thở ra kết thúc sớm, đạt tới trạng thái lưu lượng không một đoạn dài trước gốc (một lần nữa, đường  liền thẳng là một hình nhiễu vẽ bởi màn hình). Nhiều máy thở có thể định lượng rò rỉ bằng cách so sánh sự khác biệt giữa Vt hít vào và thở ra.

Đồ họa có thể giúp điều trị rò  rỉ. Nói chung, cách tiếp cận đầu tiên là  thay đổi vị trí đầu và cổ của bé để xem liệu mức độ rò rỉ có bị giảm thiểu hay không.  Tăng  lưu lượng hô hấp cũng có thể hữu ích. Sau mỗi lần điều chỉnh, kiểm tra lại dạng sóng, vòng lặp hoặc hiển thị rò rỉ sẽ cung cấp thông tin về đáp ứng của bệnh nhân.

 

Hình 6.3 Rò rỉ ống nội khí quản lớn (a, sơ đồ; b, thực tế). Vòng lặp F-V kết thúc sớm và không quay trở lại nguồn gốc. Đường thẳng nối đầu cuối của vòng lặp với tọa độ là một hình nhiễu vẽ bởi màn hình (mũi tên)

Sự xáo động (turbulence)        

Sự xáo động có thể xảy ra bất cứ khi nào có điều gì làm rối loạn lưu lượng khí. Thông thường, kết quả này là do các chất tiết hoặc nước ngưng tụ trong đường thở  hoặc bộ dây máy thở. Turbulence tạo ra một tín hiệu dòng “ồn ào”,  làm  thay đổi cả  dạng sóng chảy và vòng lặp F-V.

Hình 6.4 hiển thị dạng sóng chảy rất hỗn loạn. Trong trường hợp này, nó  hầu  như làm nhiễu tất cả lưu lượng hít vào (màu vàng hoặc đỏ). Hình 6.5 từ cùng một bệnh nhân, thể hiện sự xáo động dạng sóng hít vào nghiêm trọng và một số xáo động nhẹ ở dạng sóng thì thở ra trên vòng F-V.

Đây là cảnh báo cho người chăm sóc trên lâm sàng để kiểm tra em bé và xem  xét cẩn thận các chất tiết, nước ngưng tụ hoặc các vấn đề tắc nghẽn khác trong đường thở, ống nội khí quản, cảm biến hoặc bộ dây máy thở. Một số trung tâm đã sử dụng thông tin này để xác định khi nào nên hút đàm cho một em bé thở máy thay vì hút đàm thường xuyên.

Hình 6.4 Xáo động (a, sơ đồ; b, thực tế). Vòng F-V cũng thể hiện tín hiệu “ồn ào”, tín hiệu bất thường không đều

Hình 6.5 Xáo động (a, sơ đồ; b, thực tế). Dạng sóng lưu lượng thể hiện tín hiệu “ồn ào”, tín hiệu bất thường không đều