Những phương pháp thường được sử dụng trong nghiên cứu tâm lí y học là: quan sát, hỏi chuyện, phân tích sản phẩm, trắc nghiệm, thực nghiệm…
Có thể chia các phương pháp của Tâm lí Y học thành 2 nhóm chính: các phương pháp bổ trợ và các phương pháp chủ đạo. Phương pháp chủ đạo là phương pháp được dùng chính trong một nghiên cứu. Thông thường kết quả của các phương pháp chủ đạo được bổ sung, làm sáng tỏ thêm bằng kết quả của các phương pháp bổ trợ. Lẽ đương nhiên sự phân chia như vậy cũng chỉ mang tính tương đối.
Các phương pháp bổ trợ.
Hỏi chuyện lâm sàng:
Hỏi chuyện lâm sàng cũng là phương pháp được các thầy thuốc thường xuyên sử dụng. Tương tự như vậy, trong tâm lí lâm sàng, hỏi chuyện được dùng nhằm: thu thập thông tin về hiện trạng, nguyên nhân của các biến đổi tâm lí; thông tin về quá trình phát triển cơ thể; phát triển tâm lí – nhân cách và các mối quan hệ xã hội của người bệnh. Bên cạnh đó hỏi chuyện còn được sử dụng nhằm tạo dựng sự tiếp xúc tâm lí cũng như làm liệu pháp tâm lí.
Dựa vào cấu trúc, nội dung hỏi chuyện lâm sàng, có thể chia thành 3 mức độ:
Mức I: hầu như không có cấu trúc.
Ở mức độ này, nhà tâm lí thường đặt ra những câu hỏi mở để bệnh nhân có thể kể về những vấn đề của mình. Thông thường dạng hỏi chuyện này được thực hiện dưới dạng một buổi trò chuyện tự do và thường là ở buổi đầu tiếp xúc với bệnh nhân khi chúng ta chưa rõ vấn đề chính của họ. Nhược điểm là dễ lan man, mất nhiều thời gian.
Mức II: chỉ có hướng chính của hỏi chuyện.
Hình thức hỏi chuyện này được thực hiện, ví dụ sau khi chúng ta đã tham khảo các tư liệu trong bệnh án, qua lời kể của người nhà, bạn bè, đồng nghiệp hoặc sau trò chuyện ban đầu và chúng ta đã xác định hướng vấn đề cần làm sáng tỏ thêm.
Mức III: hệ thống câu hỏi chặt chẽ.
Đây còn gọi là hỏi chuyện (hoặc phỏng vấn) có cấu trúc. Với dạng hỏi chuyện/phỏng vấn này, các hệ thống câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn để giúp chúng ta thu được thông tin đầy đủ về vấn đề cần nghiên cứu. Thang trầm cảm Hamilton là một ví dụ thuộc dạng này. Đây là thang mà các hướng câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn, giúp cho người phỏng vấn đánh giá các dấu hiệu khác nhau của trầm cảm và mức độ nặng của các triệu chứng này.
Hỏi chuyện là một quá trình giao tiếp. Do vậy ngoài kênh ngôn ngữ còn có kênh phi ngôn ngữ. Chính kênh này đã truyền tải nhiều thông tin về cảm xúc, ví dụ như lo âu hoặc căng thẳng mà thông qua quan sát chúng ta có thể ghi nhận được:
Các dấu hiệu cận ngôn ngữ của lo âu: nói nhanh, một số lỗi ngôn ngữ, nói không hết câu…
Ở mức độ phi ngôn ngữ, lo âu thể hiện qua: tư thế cứng nhắc, tăng động chân, tay. Trầm cảm thường gắn với giảm ngôn ngữ, giảm trương lực cơ, sự phục tùng hoặc thụ động thể hiện ở giảm tiếp xúc bằng ánh mắt… Trong quá trình hỏi chuyện, cảm xúc của bệnh nhân thường cũng bị thay đổi khi chủ đề của hỏi chuyện thay đổi. Những trạng thái cảm giác như vậy thường là trung tâm của các khó khăn về tâm lí. Tuy nhiên nếu ở bệnh nhân không có sự thay đổi cảm xúc như vậy thì cần phải lưu ý đến sự nghèo nàn cảm xúc.
Ngoài ra cách ăn mặc, xưng hô, bộ điệu… cũng cho chúng ta những thông tin nhất định về đặc điểm tâm lí của bệnh nhân.
Quan sát:
Quan sát được sử dụng nhằm theo dõi, nhận xét đánh giá về hành vi của người bệnh. Trong tâm lí lâm sàng, quan sát thường được dùng kết hợp với các phương pháp khác như: trắc nghiệm, thực nghiệm và đặc biệt là hỏi chuyện. Bên cạnh đó, cũng có những thang đo được thiết kế trên cơ sở quan sát, ví dụ như một số thang đo về tăng động, giảm chú ý ở trẻ em.
Phân tích sản phẩm hoạt động:
Mọi sản phẩm hoạt động của con người đều mang dấu ấn nhất định về những đặc điểm tâm lí – nhân cách của chủ thể. Thông qua việc phân tích các sản phẩm hoạt động, chúng ta có thể có những nhận xét nhất định về những đặc điểm đó.
Một trong những sản phẩm hoạt động được quan tâm nhiều trong thăm khám tâm lí lâm sàng là các ghi chép, nhật kí, thư từ của bệnh nhân. Trong những sản phẩm này, thông thường bệnh nhân ghi lại những cảm xúc, suy nghĩ, thái độ của mình về một vấn đề nào đó hoặc về ai đó.
Trong nhiều trường hợp giám định tâm thần, nhật kí, thư từ… là những tư liệu rất quan trọng trong việc xác định và lí giải nguyên nhân cũng như quá trình dẫn đến hành vi cực đoan.
Phân tích sản phẩm hoạt động cũng có thể được xây dựng thành một phương pháp chuyên biệt, ví dụ như phương pháp vẽ tranh: vẽ tranh tự do và vẽ tranh theo chủ đề.
Phân tích tiểu sử:
Phân tích tiểu sử cũng là một trong những phương pháp cung cấp nhiều tư liệu về sự phát triển tâm lí – nhân cách của chủ thể qua từng thời kì. Trong phân tích tiểu sử cần lưu ý đến những biến cố mang tính quy luật và những biến cố mang tính bất ngờ.
Những biến cố mang tính quy luật (hầu như ai cũng phải trải qua) như: bắt đầu đi học, xa gia đình đi học hoặc đi công tác, lấy vợ hoặc lấy chồng, khi đứa con đầu tiên ra đời…
Những biến cố mang tính bất ngờ như: ốm đau, bệnh tật, tai nạn giao thông, cha mẹ hoặc chính bệnh nhân li dị…
Lẽ đương nhiên trong khi phân tích tiểu sử cũng phải luôn lưu ý đến sự phát triển về sức khoẻ của bệnh nhân qua từng thời kì và những đặc điểm xã hội của họ như: đặc điểm các mối quan hệ gia đình, đồng nghiệp, đặc điểm về kinh tế…
Các phương pháp chủ đạo.
Về mặt thuật ngữ, phương pháp có thể được hiểu ở 3 cấp độ: phương pháp luận, phương pháp tiếp cận và phương pháp cụ thể (kĩ thuật cụ thể).
Ngoại trừ cấp độ phương pháp luận, trong thực hành tâm lí nói chung, tâm lí lâm sàng nói riêng, các phương pháp nghiên cứu (chủ đạo) thường được dùng với cả 2 cấp độ: các tiếp cận và phương pháp cụ thể. Có 2 cách tiếp cận được bàn nhiều trong thực hành tâm lí lâm sàng, đó là thực nghiệm và trắc nghiệm.
Thực nghiệm tâm lí:
Thực nghiệm tâm lí là quá trình tác động vào đối tượng một cách chủ động, trong những điều kiện đã được khống chế để gây ra ở đối tượng những biểu hiện về quan hệ nhân – quả, tính quy luật, cơ cấu, cơ chế của chúng, có thể lặp đi lặp lại nhiều lần và đo đạc, định lượng, định tính một cách khách quan các hiện tượng cần nghiên cứu.
Đặc điểm nổi bật của thực nghiệm là vai trò chủ động, tích cực của nhà nghiên cứu. Đây cũng chính là nét khác biệt cơ bản giữa tiếp cận thực nghiệm với trắc nghiệm.
Đặc điểm khác nữa của thực nghiệm chính là phân tích định tính. Đặc điểm này không loại trừ tính định lượng mà ngược lại, chúng quan hệ rất mật thiết với nhau.
Theo hình thức thực hiện có thể có: thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng.
Theo mục đích: thực nghiệm phát hiện/xác định và thực nghiệm hình thành.
Trong thực hành tâm lí lâm sàng, thực nghiệm được sử dụng chủ yếu là thực nghiệm trong phòng thí nghiệm và thực nghiệm xác định. Ví dụ, dùng thực nghiệm để phát hiện các biểu hiện và mức độ của rối loạn tư duy hoặc nhằm đánh giá chung những chức năng tâm lí còn được bảo toàn và những chức năng tâm lí bị biến đổi/rối loạn cùng với mức độ rối loạn của chúng.
Trắc nghiệm tâm lí:
Cùng với việc xuất hiện các cuộc cách mạng trong Tâm lí học (như đã đề cập trong bài trước), một trong những yêu cầu để xây dựng Tâm lí học thành một ngành khoa học thực sự là đối tượng nghiên cứu của nó phải định lượng được. Trước thế kỉ XX, trắc nghiệm tâm lí cũng đã có những bước đi ban đầu. Tuy nhiên nó chỉ thực sự phát triển kể từ sau năm 1905, năm xuất hiện thang đo trí tuệ Binet-Simon. Càng ngày càng có nhiều trắc nghiệm tâm lí được xây dựng và phạm vi ứng dụng cũng được mở rộng ra rất nhiều: giáo dục, y tế, tuyển chọn nghề, quân sự (ví dụ: tại Mĩ, trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã có hơn 20 triệu quân nhân và nhân viên quân sự được “đo” trí tuệ).
Trắc nghiệm tâm lí là một phép đo nên trắc nghiệm đòi hỏi phải được thực hiện theo các yêu cầu:
Tính chuẩn: trắc nghiệm phải được thực hiện trong điều kiện chuẩn, có những điểm chuẩn trên cơ sở kết quả của các nhóm đại diện cho một quần thể (lứa tuổi, văn hoá, chủng tộc, nghề nghiệp…).
Tính hiệu lực: trắc nghiệm phải đo được chính cái mà nó cần đo.
Độ tin cậy: thể hiện ở chỗ trên cùng một đối tượng, trong các lần đo khác nhau; hoặc trên cùng những đối tượng tương đồng; hoặc các phiên bản khác nhau của cùng một trắc nghiệm phải cho kết quả giống nhau.
Cũng như các lĩnh vực Tâm lí học ứng dụng khác, trong thực tiễn tâm lí lâm sàng, một trắc nghiệm tâm lí được xây dựng ở một nước nào đó và sau được sử dụng ở nước khác. Trước khi ứng dụng, thông thường các trắc nghiệm được thích ứng hoá. Đây là các biện pháp nhằm đảm bảo cho test được sử dụng có hiệu quả trong điều kiện mới.
Thích ứng hoá test trải qua các bước:
Phân tích cơ sở lí luận của test.
Chuyển ngữ test và các hướng dẫn, kiểm định lại bằng ý kiến chuyên gia.
Kiểm tra độ hiệu lực và độ tin cậy của test.
Chuẩn hoá test.
Điều này cho thấy không nên tùy tiện sử dụng một trắc nghiệm/test bất kì nào của nước ngoài.
Sự phân chia ra các phương pháp thực nghiệm và trắc nghiệm cũng chỉ mang tính tương đối. Trong nhiều trường hợp, một phương pháp nào đó có thể được sử dụng để đo, ví dụ: dùng test Raven để đo chỉ số trí tuệ. Tuy nhiên người ta cũng có thể sử dụng chúng dưới góc độ thực nghiệm. Cũng với test Raven, người ta có thể dùng nó là chất liệu để làm thực nghiệm về tư duy hoặc khả năng phê phán của cá nhân.
Các phương pháp cụ thể:
Hiện nay có hàng nghìn phương pháp phương pháp khác nhau. Phần lớn các phương pháp này được sử dụng dưới dạng trắc nghiệm:
Các phương pháp khảo sát trí nhớ.
Các phương pháp khảo sát chú ý.
Các trắc nghiệm trí tuệ.
Các phương pháp khảo sát cảm xúc.
Các phương pháp khảo sát nhân cách.
Trong số những phương pháp này, các trắc nghiệm trí tuệ và nhân cách chiếm phần lớn.
Đánh giá hành vi:
Theo các nhà tâm lí học hành vi, cái gọi là tâm lí – nhân cách bên trong của con người là những cái không thể quan sát được cũng như không thể “đo đạc” được một cách trực tiếp. Do vậy thay vì dùng các phương pháp đo gián tiếp, các nhà tâm lí học hành vi xây dựng các quy trình đánh giá hành vi, những cái có thể trực tiếp quan sát được.
Phỏng vấn:
Mục đích chính của phỏng vấn trong đánh giá hành vi là nhằm xác định hành vi có vấn đề, các yếu tố hoàn cảnh gây râ các hành vi đó và hậu quả của chúng. Những thông số chính về hành vi có vấn đề mà nhà quan sát cần quan tâm:
Tần xuất.
Cường độ.
Độ dài.
Nhằm tăng độ tin cậy của đánh giá, xu hướng chung hiện nay là sử dụng những phỏng vấn có cấu trúc.
Quan sát:
Quan sát là kĩ thuật chủ yếu của đánh giá hành vi. Đối với một số trường hợp, ví dụ như bệnh nhân loạn thần hoặc trẻ nhỏ thì quan sát là kĩ thuật chủ đạo. Quan sát có thể do một chuyên gia hoặc là người đã được hướng dẫn, luyện tập. Đây thường là những người tiếp xúc trực tiếp với đối tượng quan sát, ví dụ như: cô giáo, cha mẹ. Cũng có thể do chính đối tượng thực hiện (tự quan sát).
Có thể sử dụng các phương tiện kĩ thuật trợ giúp: đồng hồ, camera và các thiết bị điện tử hoặc đơn giản là giấy bút.
Nghiên cứu trường hợp và nghiên cứu dịch tễ:
Nghiên cứu trường hợp:
Nghiên cứu trường hợp cũng là một phương pháp được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong Y học và Tâm lí Lâm sàng.
Có một số quan niệm khác nhau về nghiên cứu trường hợp. Tuy nhiên từ góc độ tâm lí lâm sàng, nghiên cứu trường hợp thường được hiểu là nghiên cứu một cách tích cực, toàn diện của một trường hợp cụ thể. Nội dung của nghiên cứu trường hợp bao gồm:
Các tư liệu: tiểu sử, nhật kí, tiền sử bệnh lí.
Hỏi chuyện, phỏng vấn.
Kết quả của các lần thực nghiệm tâm lí.
Kết quả trị liệu.
Giá trị lớn nhất của nghiên cứu trường hợp là ở chỗ nó có thể thu thập phong phú các tư liệu của một cá nhân, chính những kết quả của nó dẫn đến việc hình thành các giả thuyết khoa học.
Nghiên cứu dịch tễ:
Nghiên cứu dịch tễ là phương pháp nghiên cứu của Y học. Trong Tâm lí Lâm sàng, nghiên cứu dịch tễ thường được sử dụng để xác định các chỉ số về dịch tễ của một hoặc một số rối loạn tâm lí nào đó, ví dụ: nghiên cứu về stress ở sinh viên.
Giá trị của nghiên cứu dịch tễ là ở chỗ khi phân tích sự phân bố các trường hợp rối loạn trong cộng đồng và xem xét/phân tích những đặc điểm của nhóm rối loạn, chúng ta nhận biết được bước đầu mối liên quan giữa rối loạn đó với các yếu tố khác, ví dụ: mối liên quan giữa stress với bệnh tim mạch.
Phần lớn các nghiên cứu dịch tễ đều dựa trên phương pháp điều tra khảo sát và phỏng vấn. Do vậy nghiên cứu dịch tễ cần phải được thực hiện trên cơ sở một thiết kế tốt bởi nếu không chúng ta sẽ bỏ qua những yếu tố quan trọng.