Bệnh học
Mục đích
Mục đích của phẫu thuật xương là nắn, bất động xương gãy và giúp quá trình lành xương sớm.
Chỉ định phẫu thuật tuyệt đối: gãy xương khó nắn kéo, gãy xương kèm theo đứt dây chằng, sai khớp, gãy nơi đầu xương, gãy nhiều vị trí, thay khớp.
Chỉ định phẫu thuật tương đối: các bệnh lý viêm xương, ung thư xương.
Chống chỉ định phẫu thuật: xương đang nhiễm trùng, nơi xương gãy có mô xấu, thiếu da, sẹo xấu, xương không vững được sau khi mổ, gãy lồng (trừ gãy cổ xương đùi).
Thuận lợi và bất lợi của mổ xương
Thuận lợi của phẫu thuật gãy xương là xương gãy sau giải phẫu được nắn sửa gần như toàn diện theo ý muốn. Người bệnh không kéo dài thời gian nằm điều trị. Người bệnh vận động được sớm, tránh được nhiều biến chứng do nằm lâu. Tâm lý người bệnh thoải mái khi về nhà.
Bất lợi là phẫu thuật biến gãy xương kín thành gãy xương hở và như thế nguy cơ nhiễm trùng là rất cao. Ngoài ra, phẫu thuật có nguy cơ chảy máu và người bệnh bị mất máu nhiều khi mổ xương lớn. Mất máu nhiều, nhiễm trùng, sưng nề sau mổ, cơ cắt đứt do phẫu thuật, mạch máu, thần kinh tổn thương trong phẫu thuật cũng gây rối loạn quá trình lành xương. Đặt vật lạ vào gây ra tình trạng phản ứng của mô xương tại chỗ cũng gây viêm xương dị ứng khiến người bệnh phải nhập viện mổ lại để lấy ra và còn có nguy cơ viêm xương sau mổ. Cuối cùng là tốn kém và đòi hỏi phải có kỹ thuật chuyên khoa, trang thiết bị và trình độ chuyên môn cao.
Tai biến
Đối với mô: co rút cơ do cắt nhiều mô cơ, nhiễm trùng phần mềm, vết mổ.
Đối với xương: do tác dụng kim loại đặt vào trong trường hợp mổ kết hợp xương đưa đến viêm xương, xương khó lành.
Mạch máu: chảy máu, mất máu, máu tụ dễ đưa đến chèn ép.
Thần kinh: có thể tổn thương theo các mức độ khác nhau.
Toàn thân: nhiễm trùng, viêm tĩnh mạch, thuyên tắc, choáng, thiếu máu, suy dinh dưỡng…
Chăm sóc người bệnh mổ xương
Phẫu thuật nào cũng đòi hỏi tình trạng sức khỏe người bệnh thật tốt để quá trình phục hồi của người bệnh sau mổ tốt hơn; trong phẫu thuật điều trị gãy xương cũng vậy. Nhất là đối với người bệnh có mất máu do gãy xương, hay gãy xương hở có nguy cơ nhiễm trùng cao, hay người bệnh có kèm theo choáng, viêm xương, người già cần thay khớp có kèm bệnh mạn tính… Vì thế trước mổ người bệnh cần đạt được các yêu cầu sau:
Người bệnh không có dấu hiệu nhiễm trùng. Người bệnh không sốt cũng là một yếu tố xác định tình trạng người bệnh không nhiễm trùng.
Dinh dưỡng: protide lớn hơn 60g/dl. Dinh dưỡng tốt góp phần đẩy nhanh tiến trình lành xương, vết thương sau mổ.
Không có dấu hiệu thiếu máu, nhận định qua xét nghiệm số lượng hồng cầu đủ. Hồng cầu đủ giúp tạo mô xương mới, máu nuôi tốt giúp cho quá trình lành xương tiến triển, Hct bình thường giúp xác định tình trạng ổn định về chảy máu.
Không có nhiễm trùng da chung quanh chỗ xương gãy, đây là vấn đề quan trọng vì loại bỏ được nguy cơ nhiễm trùng từ ngoài vào trong và tránh được nguy cơ viêm xương sau mổ.
Chăm sóc người bệnh trước mổ
Điều dưỡng cần thực hiện công tác tư tưởng cho người bệnh và cung cấp những thông tin cần thiết như: phương pháp giải phẫu, thời gian lành xương, cách đi đứng sau mổ, chăm sóc bó bột. Hướng dẫn người bệnh cách tập vận động, hít thở sâu sau khi giải phẫu…
Để chuẩn bị người bệnh trước mổ điều dưỡng phải vệ sinh vùng da trước mổ 12 – 24 giờ: rửa da, cạo lông không được trầy rách da, cạo rộng theo quy định của giải phẫu chỉnh hình. Tốt nhất là dùng thuốc làm rụng lông. Thụt tháo buổi tối trước mổ nếu mổ chi dưới. Chụp X quang ngực, xét nghiệm máu nhất là đánh giá hồng cầu, calci, phosphate.
Tháo bột để chăm sóc da nếu có và nên đặt chi trong nẹp ngay sáng ngày phẫu thuật. Nếu có hệ thống kéo tạ thì nên tháo hệ thống kéo tạ và bất động chi gãy bằng nẹp. Trước ngày phẫu thuật và sáng ngày phẫu thuật điều dưỡng cần thay băng vết thương sạch sẽ nhưng tránh sử dụng dung dịch sát trùng có màu. Không ăn uống vào sáng ngày mổ. Thực hiện kháng sinh dự phòng
Chăm sóc người bệnh sau mổ
Sau phẫu thuật điều dưỡng cần theo dõi dấu chứng sinh tồn đến khi ổn định, chú ý huyết áp, mạch, nhiệt độ vì khả năng chảy máu sau mổ là rất cao. Phát hiện sớm các dấu hiệu chảy máu qua dẫn lưu, nơi bó bột, vết mổ.
Sau phẫu thuật người bệnh rất đau. Điều dưỡng cần đánh giá mức độ đau để chăm sóc người bệnh đau sau mổ: thực hiện thuốc giảm đau, công tác tư tưởng cho người bệnh, tư thế giảm đau…
Câu nối hệ thống dẫn lưu kín vô trùng và theo dõi số lượng, tính chất, màu sắc dịch chảy ra, chú ý chảy máu. Thường sử dụng lực hút chân không với dẫn lưu xương khớp. Khi dẫn lưu không còn tác dụng điều dưỡng sẽ rút theo y lệnh. Dẫn lưu này thường kín hoàn toàn nên điều dưỡng không thay băng để tránh nhiễm trùng xương.
Vết mổ sẽ không thay băng nếu vết mổ vô trùng. Sau mổ, phẫu thuật viên thường băng ép vết mổ với mục đích cầm máu sau mổ nên điều dưỡng không tháo băng trước 24 giờ sau mổ để tránh nguy cơ chảy máu. Khi băng thấm nhiều máu, điều dưỡng chỉ thay băng lớp ngoài. Chú ý, khi thay băng cần nhẹ nhàng, khi tháo băng tránh tình trạng chảy máu. Nếu có dấu hiệu chảy máu nên băng ép lại. Nếu có cắt lọc vết thương điều dưỡng thực hiện y lệnh thuốc giảm đau, chăm sóc vết thương, thực hiện kháng sinh.
Cần theo dõi dấu hiệu chèn ép do phù nề, do máu tụ chèn ép, do băng ép quá chặt. Điều dưỡng nâng cao vùng giải phẫu giúp giảm phù nề, kiểm tra mạch, dấu hiệu chèn ép khoang do máu tụ (dấu hiệu 5P).
Pain: đau
Pallor: tím tái
Paresthesia: dị cảm
Paralysis: liệt
Pulselessness: mất mạch
Trong trường hợp mổ viêm xương thì cần thay băng mỗi ngày. Đôi khi phải rửa vết thương liên tục, cắt lọc mô hoại tử, xương chết, máu tụ.
Để ngăn ngừa viêm phổi, điều dưỡng cần khuyến khích người bệnh hít thở sâu, giữ ấm cho người bệnh.
Để giúp người bệnh nhanh chóng hồi phục thì vấn đề dinh dưỡng rất quan trọng. Cho người bệnh ăn bình thường khi không nôn ói. Thức ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, đặc biệt là thức ăn có nhiều calci, nhưng do người bệnh nằm trên giường sau mổ, ít vận động vì vậy cần cho người bệnh uống nhiều nước tránh tạo sỏi niệu và cũng tránh táo bón.
Phục hồi chức năng vận động: tập vận động chủ động 24 giờ sau mổ các phần không cần bất động như xoay trở, vận động, tập gồng cơ, co duỗi, kéo ròng rọc, tập các khớp, tập cơ dẻo dai. Tập vận động thụ động chi bị bệnh, chú ý không gây đau, không gây phù nề thêm, tập gồng cơ nhẹ nhàng. Tập trong khi sinh hoạt, khi nằm, ngồi, đứng, đi… cho người bệnh nằm ở tư thế thoải mái, đúng tư thế cơ năng.
Trong trường hợp đoạn chi: ngoài những chăm sóc trên điều dưỡng chú ý hướng dẫn người bệnh trong giai đoạn phục hồi như cách lắp đặt bộ phận giả, cách đi nạng và trên hết là vấn đề chấp nhận sự biến dạng cơ thể, cách di chuyển và cảm giác “chi ma”.
Quy trình chăm sóc người bệnh mổ đoạn chi
Chuẩn bị người bệnh trước mổ
Rửa sạch da bằng dung dịch sát khuẩn không màu giúp phẫu thuật viên dễ nhận định, quan sát da trong và sau mổ. Nếu có vết thương thì cũng thay băng sạch sẽ. Xác định có mạch ngoại biên hay không, so sánh phù nề, màu sắc, nhiệt độ da, phần đau với mô của cơ thể bên đối diện. Kiểm tra dấu chứng sinh tồn để phát hiện tình trạng nhiễm trùng.
Nhận định tình trạng người bệnh sau mổ
Dẫn lưu tại mỏm cụt: số lượng, màu sắc, tính chất dịch. Tình trạng phù nề vết thương tại mỏm cụt sau mổ.
Đánh giá đau, tình trạng vận động, mức độ vận động của các chi còn lại. Tâm lý người bệnh: lo lắng, đau khổ, thất vọng,…
Tình trạng băng: băng kín thấm dịch, băng hở, băng ép cầm máu. Dấu hiệu nhiễm trùng.
Cảm giác chi ma của người bệnh.
Chẩn đoán và can thiệp điều dưỡng
Biến dạng cơ thể do đoạn chi
Nhận định tình trạng tâm lý về sự thay đổi hình dáng cơ thể do mất chi của người bệnh. Cho người bệnh nói lên cảm giác thất vọng, buồn phiền của mình. Người bệnh và gia đình cùng hợp tác tham gia vào việc mặc quần áo, tập vận động tăng cường sức cơ, hướng dẫn người bệnh tự chăm sóc, giao tiếp trong xã hội, tự tham gia vào việc hồi phục.
Giải thích về việc lắp chi giả để người bệnh cảm thấy không bị biến dạng hay trở thành tàn phế. Cho người bệnh gặp gỡ người bệnh lắp chi giả, cho người bệnh làm quen với dụng cụ chi giả.
Suy giảm chức năng vận động
Tập vận động là phần quan trọng trong việc đưa người bệnh trở về sinh hoạt đời sống bình thường. Tập vận động ngay sau mổ và tiếp tục cho đến khi có khả năng sử dụng được chi giả. Mục đích để ngăn ngừa tư thế xấu của mỏm cụt, tập sức mạnh các cơ và tình trạng quân bình giữa các cơ, giúp người bệnh sử dụng chi giả, tạo mỏm cụt có độ dài đúng, thon đều, sẹo không co rút
Các giai đoạn:
Ngay sau mổ: tư thế đúng trên giường, tập nhẹ toàn thân, băng thun mỏm cụt.
Một tuần sau mổ: tập nhẹ mỏm cụt, tập đi nạng, tập toàn thân.
Hai tuần sau mổ sẽ tập khớp: hướng dẫn người bệnh cách tập và cách băng mỏm cụt.
Điều dưỡng lượng giá khả năng duy trì sự vận động chi bệnh và chi lành. Hướng dẫn người bệnh tập vận động tăng cường sức cơ chi lành, tập vận động chi cụt. Hướng dẫn người bệnh đi nạng, lắp chi giả. Cho người bệnh thực tập các vận động trong sinh hoạt hằng ngày như cách tự phục vụ vệ sinh cá nhân. Các tư thế cần tránh duỗi cổ chân, co gối, gập háng, co khuỷu, áp cánh tay… vì đây là các tư thế mà người bệnh thích do giảm đau. Tránh tư thế xấu như ngồi xe lăn tay với khúc cụt bị gập, chêm gối giữa đùi, thòng mỏm cụt xuống cạnh giường, nằm với gối gập, ưỡn lưng cong, chêm gối dưới hông hay đầu gối, gác mỏm cụt trên nạng.
Đau do cảm giác bàn chân ma, do đoạn chi
Mốc chi đau chia làm 2 giai đoạn. Ngày hậu phẫu: đau do tổn thương hậu phẫu, do phù nề, chứng đau này có thể biến mất sau 10 ngày sau hậu phẫu. Đau trễ là do chi giả không phù hợp với mấu chi, da phù nề nhiễm trùng, phản ứng với chi giả, giảm tuần hoàn, viêm xương, chồi xương. Có 2 trường hợp đau không rõ nguyên nhân là:
Đau cháy: cảm giác đau như châm chích ở mỏm cụt da, khúc cụt trở nên trơn láng, phù, cơn đau có thể làm khúc cụt co giật.
Đau chi ma: là người bệnh vẫn cảm giác còn chi sau khi bị cắt. Người trẻ sẽ mau mất cảm giác trên hơn người lớn tuổi. Cảm giác chi ma mất đi trong vài tuần hay vài tháng. Cảm giác đau tăng khi có những kích thích bên ngoài như sờ vào mỏm cụt,… Thực hiện thuốc giảm đau giúp người bệnh thoải mái trước và trong khi tập. Khuyến khích vận động giúp giảm phù nề. Giải thích cho người bệnh tình trạng chi của mình. Hướng dẫn cho người bệnh trong vận động, nhắc người bệnh nhớ đến mình đã đoạn chi khi người bệnh đi lại, ngồi dậy. Giải thích với người bệnh tình trạng chi ma, an toàn tránh té ngã. Kê chi cao an toàn, tránh va chạm, chèn ép.
Nguy cơ nhiễm trùng mỏm cụt
Mỏm cụt được băng thun với những đường băng chéo và sức ép nhẹ lan từ ngoài đầu mỏm cụt vào trong góc chi. Tránh băng theo đường tròn quanh chi. Mục đích băng là ngừa phù nề và tạo dáng mỏm cụt thon. Nên cắt chỉ vết thương mỏm cụt sau 2 tuần. Vẫn băng mỏm chi cho đến khi mang chi giả. Thay băng hằng ngày, rửa vết thương nhẹ nhàng. Chú ý: tháo băng nhẹ nhàng, thấm ướt băng trước khi tháo băng tránh làm đau vì thường ngay đầu xương có mạch máu, dây thần kinh. Nên che chở vết thương bằng gạc có tẩm dung dịch mù u hay gạc ẩm để lần sau tháo băng không bị tổn thương hay đau thêm. Cần chêm lót nơi mỏm cụt. Theo dõi dấu hiệu nhiễm trùng, hoại tử.
Quy trình chăm sóc người bệnh sau mổ kết hợp xương
Nhận định tình trạng người bệnh
Nhận định tại chỗ
Vết mổ: băng thấm dịch, mùi, chảy máu, phù nề chung quanh vết mổ.
Dẫn lưu: số lượng, màu sắc, tính chất dịch.
Tình trạng vết thương: sự phù nề, đau, mức độ đau, màu sắc da niêm.
Nhận định toàn thân
Thường người bệnh gây mê khi phẫu thuật nên điều dưỡng cần nhận định tình trạng tim, phổi. Trong mổ có thể mất máu do chảy máu nên thường xuyên nhận định tuần hoàn, dấu chứng sinh tồn, tri giác để phòng ngừa choáng.
Tình trạng nước xuất nhập, nước tiểu qua ống thông. Tình trạng sức cơ chi lành và chi bệnh.
Tâm lý người bệnh khi biết họ có vật lạ trong xương, phải chịu bất động, đau.
Tình trạng dinh dưỡng, cân nặng sau mổ. Nhận định ngay biến chứng tắc mạch, huyết khối, mất mạch do hoại tử, viêm phổi, nhiễm trùng vết mổ.
Chẩn đoán và can thiệp điều dưỡng
Đau do sau mổ xương
Cho người bệnh nằm nghỉ tại giường, nhận định tình trạng đau do vết thương, do chèn ép, do dị vật… Xoay trở người bệnh thường xuyên và giúp người bệnh có tư thế dễ chịu. Giải thích tình trạng người bệnh thích nghi và cách tự chăm sóc vệ sinh cá nhân trong giới hạn cho phép. Thực hiện thuốc giảm đau trước khi tập hay trước khi thay băng cho người bệnh. Lượng giá mức độ đau và nguyên nhân đau để phát hiện dấu hiệu chèn ép sau mổ.
Người bệnh nguy cơ có dấu hiệu chèn ép do bó bột sau mổ
Nhận định tình trạng bột, vùng chi bó bột sau mổ, tình trạng vết thương qua cửa sổ bột. Hỏi người bệnh cảm giác đau, tê. Sờ mạch chi và nhiệt độ da vùng chi. Đánh giá mức độ phù nề chi và nâng chi cao không quá mực tim, nên kê chi dọc theo chiều dài chi tránh chèn ép điểm. Tiếp tục theo dõi dấu hiệu đau, tê, phù nề chi. Hướng dẫn người bệnh tập gồng chi trong bột, tập các ngón.
Nguy cơ tắc mạch do bất động sau mổ
Sau mổ cần vận động chi lành để giúp cơ khỏe có thể đi nạng hay chống đỡ chi bệnh. Với chi bệnh tập gồng cơ, kê cao chi, xoa bóp cơ, theo dõi dấu hiệu chèn ép, theo dõi mạch chi, cảm giác, vận động, so sánh nhiệt độ của chi lành và chi bệnh, vận động các ngón liên tục. Cho người bệnh ngồi dậy hay tự chăm sóc theo mức độ cho phép.
Nguy cơ chảy máu sau mổ
Trong những trường hợp phẫu thuật xương lớn nguy cơ chảy máu sau mổ là rất cao. Trong 24 giờ đầu sau mổ người bệnh tránh vận động. Theo dõi dấu hiệu chảy máu như băng thấm đỏ máu, máu chảy thành dòng, phụt máu khi tháo băng, dẫn lưu, dấu chứng sinh tồn. Theo dõi Hct, da niêm, bất động tốt sau mổ, tránh thay băng trước 24 giờ sau mổ, thực hiện băng ép sau mổ. Khi có y lệnh thay băng nên tháo băng nhẹ nhàng, an toàn. Cần giải thích với người bệnh khi tháo băng.
Nguy cơ biến chứng các cơ quan khác sau mổ xương
Nguy cơ viêm phổi do nằm lâu sau mổ: hướng dẫn người bệnh hít thở sâu, tập thở, ngồi dậy. Nghe phổi, theo dõi cơn đau ngực, khó thở do thuyên tắc phổi sau mổ do cục máu đông, do mỡ trong máu. Để ngăn ngừa nhiễm trùng sau mổ cần phòng ngừa viêm hô hấp như theo dõi nhịp thở, chú ý nhiệt độ, chăm sóc răng miệng.
Nhiễm trùng tiểu: chăm sóc sạch, khô bộ phận sinh dục sau khi đi tiểu hay đại tiện phòng ngừa nhiễm trùng tiểu, hạn chế đặt thông tiểu.
Tắc mạch do bất động, do bó bột: tránh tình trạng tắc mạch chi sau mổ, theo dõi dấu hiệu chèn ép như kê chi cao, nên kê toàn bộ chiều dài chi. Tập vận động chi nhẹ nhàng. Theo dõi và so sánh nhiệt độ vùng da bất động, so sánh cảm giác trên da, mạch chi.
Vết mổ: chăm sóc theo dõi vết mổ, thay băng khi thấm dịch, rút dẫn lưu sớm khi hết tác dụng.
Xoay trở để tránh nguy cơ loét do tì, đè. Phát hiện sớm các dấu hiệu chèn ép như đỏ da, đau thì nên xử trí ngay. Chêm lót những vùng dễ bị đè cấn. Vệ sinh da sạch sẽ tránh viêm nhiễm, nhiễm trùng do bất động, do nằm tại chỗ. Thực hiện kháng sinh cho người bệnh. Phòng ngừa mất máu, choáng do giảm thể tích, điều dưỡng thực hiện y lệnh bù dịch, theo dõi nước tiểu, Hct, dấu hiệu mất nước, truyền máu nếu cần. Theo dõi nước xuất nhập.
Dinh dưỡng cho người bệnh sau mổ xương
Cho người bệnh uống nhiều nước, cung cấp các chất có nhiều vitamin và nhất là giàu protid và calci. Cho ăn ngay khi người bệnh tỉnh. Trong trường hợp người già khó ăn điều dưỡng nên cung cấp thức ăn mềm, dễ nhai. Thức ăn nên có tính chất nhuận tràng giúp người bệnh đại tiện dễ dàng vì do hạn chế đi lại, nếu mổ chi dưới thì người bệnh rất dễ bị táo bón. Thức ăn hợp vệ sinh để tránh nguy cơ tiêu chảy sau mổ. Nên lau chùi sạch sẽ vùng da dưới hậu môn. Người bệnh không kiêng cữ thức ăn nhưng nên ăn thức ăn có nhiều calci như nghêu, sò, cua,… nên hướng dẫn người bệnh vận động, uống nhiều nước tránh nguy cơ tạo sỏi. Đối với người già thì nên cho uống sữa vì khả năng hấp thu calci kém.
Người bệnh lo sợ đi lại sau mổ
Tập cho người bệnh đi lại khi có ý kiến chuyên môn, hướng dẫn cách đi nạng. Cho người bệnh đong đưa chân trên giường. Di chuyển cho người bệnh từ giường qua xe. Cho người bệnh đi lại bằng nạng. Chú ý: nếu người bệnh đau thì ngưng tập. Tránh gãy xương thứ phát hay biến dạng sau mổ.
Chăm sóc người bệnh mổ kết hợp cổ xương đùi
Chăm sóc trước mổ
Người bệnh vẫn đặt chi bệnh trong tạ kéo trong thời gian chuẩn bị trước mổ. Thực hiện chụp X quang ngực và vùng cổ xương đùi.
Thụt tháo trước mổ.
Đo ECG để đánh giá tình trạng tim mạch.
Xét nghiệm sinh hoá máu, nước tiểu. Rửa da để giảm bớt vi khuẩn trên da. Thực hiện thuốc, truyền dịch theo y lệnh và cung cấp dịch cho người bệnh vì người bệnh nhịn đói đêm trước mổ.
Chăm sóc sau mổ
Hô hấp: nghe phổi mỗi giờ, phát hiện bất thường về đường thở, theo dõi chỉ số ôxy, hút đờm khi cần, tập thở 2 giờ/1 lần.
Tuần hoàn: theo dõi dấu hiệu chảy máu, sưng nề.
Theo dõi dấu chứng sinh tồn 15 phút/lần/4 lần, 30 phút/lần/4 lần, 1 giờ/lần/4 lần và sau đó 4 giờ/1 lần. Tập vận động, vật lý trị liệu cho người bệnh. Tập đi với nạng, với xe hỗ trợ.
Dinh dưỡng: cung cấp thức ăn nhiều dinh dưỡng.
Đau: thực hiện thuốc giảm đau cho người bệnh, tránh làm người bệnh đau khi tập. Nếu người bệnh đau nên thực hiện thuốc giảm đau trước khi tập.
Vết mổ: tình trạng đau nơi vết mổ, băng thấm dịch, mùi hôi.
Theo dõi biến chứng: tắc mạch, biến dạng chi, loãng xương, rối loạn nhịp tim, nhiễm trùng, viêm phổi.
Giáo dục người bệnh
Giáo dục người bệnh tái khám đúng kỳ hạn, biết thời gian lấy đinh ra. Người bệnh duy trì tập vật lý trị liệu tránh loãng xương sau mổ. Hướng dẫn người bệnh theo dõi các dấu hiệu của viêm xương. Chăm sóc chi bó bột. Hướng dẫn người bệnh đi nạng. Hướng dẫn người bệnh cách đi đứng, các dấu hiệu bất thường sau mổ xương như đau, sốt; khuyến khích người bệnh phơi nắng, tập luyện tránh loãng xương. Dinh dưỡng, chú ý ăn đủ chất dinh dưỡng, nhất là thành phần calci giúp xương lành tốt, cho người bệnh uống nhiều nước.
Tài liệu tham khảo
Judith Ellis White. Musculoskeletal Knowledge base for Patient with Dysfunction, Surgical Nursing
Foundations for Clinical Practice 2nd ed., WB Saunders company, 1998, 837 – 945.
Susan Ruda, Musculoskeletal Problem, Nursing Role in Management Musculoskeletal Problems, in Medical Surgical Nursing, 4th ed., Lewis Collier Heitkemper/MOSBY, 1992, 1839 – 1892.
Mary Sampel. Musculoskeletal system in Mosby’s Manual of Clinlcal Nursing, 2nd ed., Mosby Company, 1986, 375 – 474.
Nguyễn Quang Long, Đại cương về gãy xương, Bài giảng bệnh học ngoại khoa, Bệnh học cơ quan vận động, tập 5, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, Bộ môn Ngoại tổng quát, 1988, 46 – 73.
Chăm sóc ngoại khoa (tài liệu thí điểm giảng dạy Điều dưỡng Trung học) 03 – SIDA Hà Nội, 1994, 110 – 112.