Nhắc lại một số điểm quan trọng về giải phẫu và kỹ thuật.
Cả hai kỹ thuật chụp CLVT quy ước và chụp CLVT với độ phân giải cao đều bổ xung những thông tin chẩn đoán quý cho các phim lồng ngực chuẩn vì CLVT có độ phân giải đối quang cao hơn và cho các ảnh lớp cắt ngang. Hai ưu thế nói trên cho phép nhận biết và đánh giá đầy đủ hơn các quá trình bệnh lý của phổi.
Kỹ thuật chụp CLVT với độ phân giải cao (HRCT) đòi hỏi các lớp cắt phải có độ dầy ≤ 2mm và thời gian lớp cắt cũng ≤ 2m giây.Do kỹ thuật máy ngày càng tiến bộ, hiện nay đã có máy quét 1 giây một lớp cắt và độ dầy lớp cắt1mm; máy quét xoắn ốc, ảnh HRCT phổi càng có chất lượng cao hơn đối với các chi tiết giải phẫu học tiểu thuỳ và dưới tiểu thuỳ.
Về giải phẫu có thể phát hiện các thuỳ, rãnh liên thuỳ. Các rãnh liên thuỳ hiện trên ảnh là các vùng không có các mạch lớn, còn trên ảnh HRCT chúng là vệt trắng đậm nếu chụp với cửa sổ nhu mô phổi. Trên các lớp cắt phổi bình thường ở tư thế nằm ngửa, do ảnh hưởng của áp lực thuỷ tĩnh và trọng lực, có thể thấy hình đậm quá mức, có khi thành đám ở phần sau của đáy phổi .
Trên ảnh CLVT các quá trình bệnh lý phế nang và bệnh lý tổ chức kẽ cũng cần phân biệt như trên phim phổi chuẩn . Dấu hiệu phế quản chứa không khí trên ảnh CLVT cũng có giá trị như trên ảnh lồng ngực chuẩn .
Các bệnh lý phổi có tổn thương khu trú thành ổ.
Kén có nguồn gốc phế quản
Là các khối tròn hay bầu dục đơn độc , có đậm độ của nước đồng nhất , hay gặp ở vùng thuỳ dưới tại khu vực trung tâm ( gần rốn phổi ). Chúng có thể từ 1 đến 5 cm đường kính . khoảng 30% các kén có thông với phế quản và do vậy có thể thấy mức nước- khí trong kén. Một số kén (nhất là kén thông với phế quản ) lại có thể nhiễm khuẩn làm cho dịch ttrong kén thành mủ và có tỷ trọng tăng lên ; phân biệt các kén nhiễm trùng với áp xe phổi rất khó khăn.
U tuyến phế quản (bronchial adenoma)
Loại u này hay gặp ở tuổi 30 – 50 với dấu hiệu lâm sàng ho ra máu.
Các u tuyến này hầu hết là u carcinoid rồi đến cylindroma, epidermoid, carcinoma và pleomorphic adenoma . 80% các u tuyến xuất phát từ phế quản thuỳ, phân thùy và dưới phân thuỳ , vì vậy rất hay gây ra xẹp phổi và viêm phổi, hình ảnh bẫy khí (air trapping) gặp ít hơn. 20% các u tuyến phế quản gặp ỏ vùng ngoại biên và hiện trên ảnh cắt lớp là những ổ tròn, bờ rõ, kích thước từ 2 – 5 cm .
Ung thư phế quản (bronchial carcinoma)
Về mô học, xếp theo mức độ hay gặp là ung thư biểu mô dạng biểu bì (Squamous cell) rồi đến ung thư biểu mô dạng tuyến (adenocarcinoma), đến ung thư tế bào nhỏ và cuối cùng là ung thư tế bào lớn hay thành khối u lớn ở ngoại biên. Nhiều tác giả đã công bố kết quả nghiên cứu so sánh giữa chụp cắt lớp qui ước và chụp cắt lớp vòng xoắn (thể tích) cho thấy
chụp xoắn ốc có khả năng phát hiện các nhân phổi vượt trội .
Đặc điểm của nhân phổi ác tính :
Định nghĩa: Tất cả các trường hợp trên X quang chuẩn thấy một nốt tròn hay bầu dục với kích thước dưới 3cm và không kèm theo hình xẹp phổi hay viêm phổi đều được coi là một nhân phổi đơn độc (solitary pulmonary nodule) . Khi nhân phổi vượt quá 3cm sẽ gọi là khối và khả năng ác tính rất cao, cách xử trí chỉ còn là sinh thiết và phẫu thuật . Khoảng từ 40 đến 72% các ung thư phổi được phát hiện ở giai đoạn chưa có dấu hiệu lâm sàng là nhân phổi đơn độc ngoại biên .
Nhân phổi đơn độc ngoại biên có tua gai ở bờ
U phế quản ngoại biên có hang ở thùy trên phổi phải và có hạch cạnh phải khí quản . Tổn thương xơ đỉnh phổi trái
Trên ảnh CLVT, các ung thư phế quản thường là khối đặc ở trung tâm hoặc ngoại biên có : độ lớn trên 2cm (75 đến 85% là ung thư) . Vị trí các nhân phổi cũng có ý nghĩa định hướng : 60% ở dưới màng phổi hoặc 1/3 ngoài, 30% ở 1/3 giữa và chỉ có 10% là ở 1/3 trong . Một số tác giả còn nêu vị trí hay gặp của nhân ung thư phổi là thùy trên và phổi phải nhiều hơn . Bờ không đều, không rõ hoặc có gai.
Khoảng 15% có hang , bờ dầy và thành trong không đều ( hay gặp ở ung thư Epidermoid). ổ vôi hoá lệch tâm trong u có thể thấy ở 5% các trường hợp. Khoảng 30% đi kèm với xẹp phổi phân thuỳ, thuỳ hoặc viêm phổi do tắc nghẽn phế quản , không thấy hình phế quản chứa khí. Hạch rốn phỏi to ở một bên có thể kèm theohạch trung thất là hình ảnh hay gặp kèm theo nhưng cũng có khi không thấy hạch to , nhất là ở loại ung thư tế bào nhỏ. Khoảng 10% có tràn dịch màng phổi đi kèm do u đi tới màng phổi. Các u ngoại biên hay có dày màng phổi nơi tiếp cận u. ở các trường hợp phát hiện muộn có thể thấy u lan tới xương sườn thành ngực và xương sống. Các nhân di căn, trái lại hay thấy ở thùy dưới, hình tròn hoặc bầu dục, bờ đều và đậm độ thấp hơn .
Theo P. Grenier (2002), các dấu hiệu dưới đây gợi ý một nhân phổi ác tính
Kích thước trên 20mm
Bờ có tua gai
Trong nhân có hình phế quản sáng hoặc hình giả hang
Vôi hóa dạng ác tính trong nhân (lệch tâm, lấm tấm rải rác)
Hình kính mờ khu trú có kích thước trên 10mm
Nhân hỗn hợp (có phần đặc, phần kính mờ)
Các dấu hiệu trên chỉ cần có 1 dấu hiệu là đủ để hướng tới ác tính .
Sơ đồ xẹp thuỳ trên phổi phải trên phim thẳng, nghiêng và chụp cắt lớp vi tính ; mức độ giảm thông khí càng tăng, rãnh liên thuỳ càng di chuyển ra trước và vào trong, cuối cùng
rãnh liên thuỳ bám sát bờ phải trung thất trước . Đậm độ mô phổi bị xẹp cũng tăng lên theo mức độ phổi bị xẹp
Sơ đồ xẹp thuỳ giữa phổi phải trên phim thẳng và nghiêng . Trên phim cắt lớp, thuỳ giữa bị xẹp có hình tam giác tăng đậm bám sát bờ phải của bóng tim .
Sơ đồ xẹp thuỳ dưới phổi phải trên phim thẳng và nghiêng . Trên phim cắt lớp, rãnh liên thuỳ lớn di chuyển dần ra sau và vào trong và hình thành khối tăng đậm cạnh phải cột sống, cực dưới rốn phổi cũng xoay dần ra sau .
Sơ đồ xẹp thuỳ trên phổi trái trên phim thẳng, nghiêng và chụp cắt lớp vi tính
Sơ đồ xẹp thuỳ dưới phổi trái trên phim thẳng. nghiêng . Trên chụp cắt lớp vi tính , thuỳ phổi xẹp hình thành khối tăng đậm cạnh cột sống và bao bọc động mạch chủ xuống
Dấu hiệu viền (Halo Sign) là hình kính mờ bao quanh nhân phổi được một số tác giả coi là hay gặp trong giai đoạn sớm của viêm, nhất là viêm do nấm Aspergillus và viêm lao ở người suy giảm miễn dịch .
Dấu hiệu phế quản sáng gặp trong chụp cắt lớp lớp mỏng tại các nhân phổi
được báo cáo gặp trong ung thư phế quản nhiều hơn trong nhân phổi lành tính
Các u di căn:
Các u di căn có nguồn gốc rất khác nhau và hình dáng, kiểu mẫu u di căn cũng có những điểm khác biệt. Di căn dạng kê thường phối hợp với các tổn thương mạch máu phổi hay gặp từ u nguyên phát ở vú , giáp trạng, thận, tiền liệt tuyến, saccôm xương và choriocarcinoma.
Di căn dạng nốt tròn hay gặp từ ung thư thận, đại tràng, các u sắc tố và các sarcoma. U di căn ở phế quản kèm xẹp phổi do tắc nghẽn phế quản lại hay gặp nguồn gốc từ ung thư phế quản, thận, vú, đại tràng và u sắc tố.
Các di căn theo đường máu thường có dạng hạt kê cho đến nốt nhỏ và nốt lớn hình tròn, kích thước từ 1-4cm. Trong các di căn đường máu thường không thấy các hạch to ở rốn phổi và trung thất.
U di căn đơn độc hiếm gặp hơn, có thể xuất phát từ đại tràng, Sarcome xương, ung thư thận, tinh hoàn, vú.
U di căn có hang hiếm thấy và gặp trong các u nguyên phát của tế bào sừng (Squamous) của đầu, cổ và cổ tử cung . Rất hiếm gặp u di căn có vôi hoá và nếu gặp nên hướng tới các u tuyến tiết nhầy , giáp trạng và u tế bào mầm .
U hạch :
Lymphoma ở phổi thường gặp tổn thương đa ổ dưới dạng nốt bờ không rõ nét hoặc những phân thuỳ đông đặc có hình phế quản chứa khí bên trong dễ nhầm với viêm phổi. Tổn thương thành hang cũng có thể thấy trong lymphoma dạng Hodgkin làm dễ nhầm hơn với lao phổi. Các thương tổn phổi của lymphoma hầu như luôn luôn gắn với các hạch to của lymphoma ở rốnphổi và trung thất.Tràn dịch màng phổi có thể gặp trong 1/3 các lymphoma có khi kèm hình dày màng phổi khu trú, khó phân biệt với các u trung mô ở màng phổi.
Phân loại các nhóm hạch trung thất ( theo Hội lồng ngực Mỹ )
2R Hạch cạnh khí quản trên bên phải
2L Hạch cạnh khí quản trên bên trái
4R Hạch cạnh khí quản dưới bên phải
4L Hạch cạnh khí quản dưới bên trái
5 Hạch khoang chủ-phổi
6 Hạch trung thất trước (cạnh quai động mạch chủ)
7 Hạch dưới chạc ba khí phế quản
8 Hạch cạnh thực quản
9 Hạch dây chằng phổi phải và trái
10R Hạch khí-phế quản phải
10L Hạch cạnh phế quản trái
11 Hạch trong phổi
14 Hạch trên hoành
Hạch có dấu * phát hiện được qua soi trung thất, nhóm 5,6 và 2L qua mở ngực từ phía trước
U carcinoid :
U carcinoid được xếp vào nhóm u thần kinh nội tiết của phổi điển hình hoặc không điển hình . Các u này phần lớn phát triển như một khối trong lòng phế quản và nhanh chóng gây tắc phế quản, có thể phát triển ra ngoài phế quản . Các u không điển hình thường phát triển nhanh và di căn sớm hơn . Ba dấu hiệu điển hình của u carcinoid là (1) khối tròn bờ rõ hoặc đa thùy; (2) cát cụt hoặc hẹp lòng một phế quản và (3) hay gặp gặp nốt vôi hóa lệch tâm trong u . Các u này thường rất giầu mạch nên ngấm thuốc rất mạnh sau tiêm cản quang
Ung thư tế bào phế quản phế nang (bronchoalveolar cell carcinoma) :
loại ung thư này có 3 dấu hiệu gợi ý trên chụp cắt lắp vi tính là (1) ổ sáng dạng bọt không
khí trong u còn gọi là hình giả hang (2) hình phế quản sáng trong u trên chụp cắt lớp mỏng; (3) co kéo màng phổi và có thể có (4) dấu hiệu viền
Lao phổi:
lao phổi là bệnh đang có chiều hướng tăng ở các nước trước đây được coi là đã thanh toán bệnh lao. ở Việt Nam, lao phổi còn là một bệnh xã hội tương đối phổ biến và hay thấy kết hợp với suy giảm miễn dịch . Chẩn đoán hình ảnh lao phổi dựa căn bản trên xét nghiệm đờm và phim X quang chuẩn lồng ngực.
Các tổn thương lao phổi hay gặp ở đỉnh và các phân thuỳ sau (2) của thuỳ trên hai phổi.
Trên ảnh CLVT có thể thấy các loại tổn thương sau:
U lao có hình tròn hay bầu dục, bờ rõ hoặc không rõ, kích thước từ 1 – 4cm và rất hay kèm theo hình tăng đậm ( thâm nhiễm) nhu mô xung quanh, còn gọi là các tổn thương vệ tinh.
Hang lao, các hình hang có bờ mỏng hoặc hơi dày với bờ trong của hang nhẵn đều, hiếm thấy hình hơi – mức dịch trong hang. Quanh hang thường có các tổn thương đông đặc nhu mô, những thay đổi dạng xơ phổi và hình giãn phế quản cục bộ. Dầy màng phổi, nhất là màng phổi đỉnh rất hay gặp. Từ các hang lao, tổn thương có thể lan theo đường phế quản mà biến thành phế quản phế viêm lao.
Lao kê là thể lao lan theo đường máu, trên ảnh CLVT là những nốt rất nhỏ dưới dạng hội chứng kẽ.
Hạch lao cũng là hình ảnh thường kèm theo các thương tổn nhu mô: khi tiêm thuốc cảm quang, các hạch lao hay có ổ hoại tử không ngấm thuốc ở trung tâm và theo thời gian rất hay thấy các ổ thấm vôi ở hạch.
Giãn phế quản.
Có nhiều nguyên nhân gây ra:
Bẩm sinh trong hội chứng Kartagener, xơ hoá dạng kén, đa u hạt mạn tính ở trẻ em và suy giảm men alpha l- antitrypsin.
Sau nhiếm khuẩn như bệnh viêm mạn tính kiểu tổ chức hạt (thí dụ lao phổi), sởi, hội chứng Swyer- James.
Sau tắc nghẽn phế quản do sặc vào đường thở hoặc sau ngộ độc khói ở đường thở.
Sau các sẹo xơ ở nhu mô phổi
Theo truyền thống, chụp phế quản cản quang được coi là tiêu chuẩn vàng đối với giãn phế quản nhưng gần đây nhiều tác giả qua nghiên cứu cho thấy có thể coi chụp cắt lớp độ phân giải cao hoàn toàn có thể thay thế chụp phế quản .
Tiêu chuẩn chẩn đoán giãn phế quản trên chụp cắt lớp vi tính bao gồm 3 nhóm dấu hiệu là : (1) phế quản giãn; (2) thành phế quản dầy và (3) phế quản đầy niêm dịch :
Phế quản giãn : lòng trong của phế quản rộng hơn động mạch đi kèm, chia thành 3 bậc : bậc I : lòng phế quản 3 khẩu kính mạch .Lòng phế quản không giảm đường kính sau chỗ chia đôi 2cm . Giãn phế quản ngoại vi tính theo 1/3 ngoài của trường phổi .
Thành phế quản dầy : Bậc I thành phế quản > 0,5 khẩu kính động mạch đi kèm; bậc II thành phế quản > 0,5-1 khẩu kính mạch và bậc III thành phế quản > 1 khẩu kính mạch đi kèm .
Phế quản đầy niêm dịch : là những cấu trúc tăng đậm hình ống hay hình chữ Y dưới dạng có phân nhánh hoặc tròn do cắt ngang qua mà không phải là hình mạch máu .
Hình giãn phế quản có thể gặp 3 dạng trên chụp cắt lớp vi tính độ phân giải cao :
Dạng túi hoặc kén là những hình kén khí hoặc kén dịch-khí, dịch thành mỏng có thể tới 3cm đường kính và có mức dịch- khí bên trong; các kén này có thể tụ thành đám như tổ ong hoặc liên tiếp nhau trên một vệt dài.
Dạng ống hoặc trụ có thành phế quản dầy, lòng phế quản giãn tụ thành những đám cấu trúc ống. Có khi gặp hình ngón găng tay nếu chứa đầy niêm dịch nhầy. Dấu hiệu con dấu tròn (Signet Ring Sign) nếu lớp cắt vuông góc với trục dọc của phế quản giãn kèm theo hình mạch máu cắt ngang có khấu kính nhỏ hơn lòng phế quản.
Dạng búi: Các phế quản giãn, thành dầy tụ thành đám với bờ xung quanh không đều.
Các túi không khí dưới dạng kén với độ lớn trên một 1cm với bờ rất mỏng , có thể đi kèm với một vùng xơ phổi hoặc đơn độc. Các kén khí này dễ gây ra tràn khí màng phổi và thường khó phân biệt với giãn phế nang dạng túi.
Các bệnh phổi có tổn thương lan toả ở nhu mô
Triệu chứng học :
Về giải phẫu học phổi, đơn vị nhỏ nhất là chùm phế nang (acinus) rồi đến tiểu thuỳ sơ cấp ( primary lobule), sau đó đến tiểu thuỳ thứ cấp (secondary lobule).
Các tiểu thuỳ thứ cấp có thể phân biệt trên ảnh HRCT. Đó là đơn vị phối hợp bao bọc bằng vách tổ chức liên kết. Một tiểu thuỳ thứ cấp gồm 3- 5 phế quản tận cùng và chứa đựng 30 –50 tiểu thuỳ sơ cấp, đường kính một tiểu thuỳ thứ cấp từ 1 – 2,5 cm; các tiểu thuỳ này không có sự phân bố đồng dạng mà thường thấy rõ ở vùng ngoại vi của phổi tiếp giáp với màng phổi.
Xẹp phổi là tình trạng tăng đậm độ phổi do dịch hoặc tổ chức đặc thay thế không khí và do đó bờ vùng xẹp phổi thể hiện tình trạng giảm mạnh thể tích phổi. Có thể chia xẹp phổi thành 2 nhóm chính : Xẹp phổi tắc nghẽn và không tắc nghẽn. Xẹp phổi tắc nghẽn do sự thông thương giữa phế quản và vùng ngoại vi bị nghẽn hoặc do tổn thương trong lòng phế quản hoặc do đè ép từ ngoài vào.
Trên ảnh CLVT xẹp phổi có ảnh đặc hiệu do giảm khối lượng phổi và chuyển vị các rãnh biên thuỳ.
Viêm phế quản mạn tính là một chẩn đoán lâm sàng dựa trên tình trạng tăng xuất tiết chất nhầy phế quản. Trên ảnh HRCT chỉ thấy thành phế quản dầy mà phế quản không giãn, tương ứng với hình tăng đậm dưới phổi hoặc phổi bẩn ( dirty chest ) trên phim lồng ngực chuẩn.
Giãn phế nang là tình trạng giãn không hồi phục các khoang chứa không khí sau phế quản tận cùng kết hợp với sự phá huỷ các vách phế nang. Giãn phế nang được chia thành 4 típ là :
Giãn phế nang trung tâm tiểu thuỳ, các tiểu phế quản hô hấp bị phá huỷ thường thấy lúc đầu ở thuỳ trên, và hay gặp ở người nghiện thuốc lá ; Phổi quá sáng đi kèm những túi không khí nhỏ và thưa thớt các mạch máu so với phổi bình thường
Giãn phế nang đa tiểu thuỳ, các chùm phế nang và các tiểu thuỳ thứ cấp bị phá huỷ đồng dạng. Thể giãn phế nang này hay gặp ở thuỳ dưới và đặc hiệu trong các trường hợp suy giảm men alpha 1 antitripsin nhưng cũng có thể gặp ở người nghiện thuốc lá. Trên ảnh CLVT cũng có hình quá sáng phổi ( giảm đậm độ CT ) từng vùng rộng , nhiều khi khó phân biệt với giãn phế nang trung tâm tiểu thuỳ mức độ nặng.
Giãn phế nang cạnh vách có tổn thương chọn lọc ở phế nang và túi phế nang ở ngoại vi của tiểu thuỳ. Hình giãn này khu trú đặc hiệu ở sát màng phổi hoặc ở sát vách tỉểu thuỳ. Đó là các túi nhỏ chứa khí có thể phát triển thành túi lớn giãn phế nang. Trên ảnh CLVT hay gặp các túi giãn phế nang ở cạnh màng phổi trung thất.
Giãn phế nang không đồng đều còn gọi là cạnh các sẹo phổi thường phối hợp với xơ phổi khu trú ( như trong lao phổi ) hoạc xơ phổi toàn thể ( như bụi phổi hay sarcoit ).Hình ảnh lâm sàng của loại giãn phế nang này gắn liền với bệnh phổi gốc.
Tổn thương tổ chức kẽ ở phổi có hình dày vách liên tiểu thuỳ trên hình ảnh HRCT là hình ảnh hay gặp. Các vách liên tiểu thuỳ bình thường hiếm thấy hiện trên ảnh HRCT, nếu thấy đó là những vệt rất mỏng dài từ 1-2 cm ở vùng sát màng phổi.
Trong viêm tổ chức kẽ, các vách này dầy lên trên 1mm và hiện ra nhiều trên các lớp cắt; có khi kèm theo hình tăng mật độ các mạch máu và phế quản tiểu thuỳ hiện ra dưới dạng hình vệt đậm hoặc nốt tròn nhỏ ( nếu cắt ngang ).Cũng có khi thấy những vệt cong đậm gần màng phổi với chiều dài 2 – 10cm, song song với thành ngực.
Các nốt kê bờ rõ, kích thước từ 1 – 3mm hoặc hơn nữa cho đến 1cm xuất hiện ở vùng ngoại vi của phổi,loại nốt này là một dạng của tổn thương tổ chức kễ hay gặp trong các bệnh viêm có tổ chức hạt , sarcoit, các di căn và bệnh bụi phổi.
Hình tầng ong gồm những kén khí đồng dạng có đường kính từ 5 – 10mm với thành dầy và hình ảnh đặc hiệu của xơ hoá tổ chức kẽ phổi ở giai đoạn muộn. Loại tổn thương này hay gặp ở thuỳ dưới và trừ bệnh Sarcoit và Silicosis lại hay thấy ở thuỳ trên.
Khi tổn thương xơ phát triển hơn nữa sẽ có hình đậm thành đám kèm với giãn phế quản do co kéo.
Dạng thứ hai của tổn thương kẽ lại khu trú ở vùng tổ chức kẽ trung tâm quanh phế quản – mạch máu có thể dưới dạng phù, thâm nhiễm hay xơ hoá tạo ra hình dày thành phế quản trên các lớp cắt.
Dạng này hay gặp trong các bệnh viêm và có khi kết hợp với viêm bạch mạch trong ung thư, lymphoma và bệnh Sarcoit.
Các bệnh viêm:
Viêm phổi có thể do nấm, do virut thường biểu hiện dưới dạng tổn thương tổ chức kẽ. Bệnh viêm tiểu phế quản (Bronchiolitis) cho hình ảnh lưới – nốt hoặc nốt từ 1 – 10 mm kèm theo quá sáng do tăng thông khí hoặc ngược lại, nếu các phế quản nhỏ bị tắc nghẽn sẽ tạo thành những đám tăng đậm do các phế nang ứ đầy tổ chức viêm và xơ ở cả hai bên phổi.
Bệnh silicosis và bụi phổi của thợ mỏ than:
Thông thường hình ảnh của bệnh xuất hiện sau tác động của nghề nghiệp liên tục từ 10 – 20 năm. Riêng Silicosis cấp tính của người làm trong mỏ than có thể xảy ra bệnh phế nang lan toả do bụi Silic trong thời gian làm nghề chỉ một năm. Hội chứng Caplan có thể phối hợp với bụi phổi nhất là ở những người thợ mỏ than bị bụi phổi.
Hình ảnh HRCT là nhiều nốt đậm từ 1 – 10mm thấy ở vùng trên và vùng giữa phổi. Khoảng 10% các nốt này có vôi hoá ở trung tâm. Các hình ảnh đi kèm là tổn thương dạng tổ chức kẽ như dày vách liên tiểu thuỳ, các vệt mờ và nốt màng phổi, các dải xơ, hình tầng ongvà hình giãn phế quản do co kéo.
Hạch rốn phổi hay gặp, một số nhỏ hạch có thể thấm vôi mỏng hình vỏ trứng đặc biệt trong bệnh bụi Silic. Bệnh có thể tiến sang giai đoạn những đám xơ phát triển ở thuỳ trên, đôi khi thành hang.
Asbestosis :
Các tổn thương tổ chức kẽ hay gặp nhất ở vùng đáy phổi và cũng có những hình ảnh tổn thương kẽ đã mô tả trong Silicosis. Hay phối hợp với bệnh lý màng phổi trong Asbestose như mảng dày màng phổi. Tổn thương Asbestosis có thể gặp nữa là xẹp phổi tròn, đó là những ổ tăng đậm dưới màng phổi hình tròn hay hình thấu kính kèm hình “đuôi sao chổi” là hình bó mạch – phế quản đi vào ổ đậm. Một số ít trường hợp có thể chuyển thành u phế quản hoặc mesothelioma màng phổi.
Bệnh sarcoit :
Bệnh hay gặp ở Châu âu, ở Việt Nam hiện được coi là hiếm gặp. Phụ nữ da đen ở tuổi 20 – 40 có tần xuất mắc cao. 50% không có triệu chứng lâm sàng. Tổn thương hay gặp nhất là hạch to ở rốn phổi và trung thất, một số ít có thể có tràn dịch màng phổi.
Dấu hiệu trên ảnh CLVT hay gặp là tổn thương tổ chức kẽ dưới dạng hình kính mờ ở gần màng phổi, tổn thương dạng phế nang ít gặp hơn