Nội dung

Chỉ đạo tuyến trong lĩnh vực khám, chữa bệnh

Chỉ đạo tuyến, mục đích, ý nghĩa

Chỉ đạo tuyến là hoạt động hỗ trợ tuyến dưới của các cơ sở khám bệnh chữa bệnh tuyến trên về chuyên môn, nghiệp vụ trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là việc thực hiện các kỹ thuật y tế: đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, hội chẩn, hỗ trợ nhân lực.

Công tác chỉ đạo tuyến là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành Y tế. Trong những năm qua, Bộ Y tế đã chỉ đạo các cơ sở khám chữa bệnh thực hiện công tác chỉ đạo tuyến nhằm đưa những dịch vụ kỹ thuật y tế đến gần dân, góp phần thực hiện công bằng và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân.

Quy chế bệnh viện năm 1997 quy định: Chỉ đạo tuyến về khám chữa bệnh, phòng bệnh, nghiên cứu khoa học và đào tạo là trách nhiệm của bệnh viện.

Nhằm góp phần nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, đưa dịch vụ kỹ thuật y tế đến gần nhân dân, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, đảm bảo sự công bằng trong việc tiếp cận dịch vụ y tế và đáp ứng nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân, giảm tình trạng quá tải cho bệnh viện tuyến Trung ương, Bộ Y tế luôn quan tâm, chú trọng chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chỉ đạo tuyến. Trải qua các thời kỳ hình thành, phát triển, ngành y tế luôn coi chỉ đạo tuyến là một nhiệm vụ quan trọng của các bệnh viện. 

Năm 2009, Luật khám bệnh, chữa bệnh ban hành, tại Khoản 3 Điều 81quy định: cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của tuyến trên có trách nhiệm chỉ đạo, hỗ trợ về chuyên môn kỹ thuật đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của tuyến dưới.

Thông qua hoạt động chỉ đạo tuyến, bệnh viện tuyến trên có điều kiện giúp đỡ tuyến dưới cả về phòng bệnh, chữa bệnh, về tổ chức quản lý, về chuyên môn kỹ thuật cả về lý thuyết và thực hành. 

Hoạt động đào tạo, cầm tay chỉ việc, chuyển giao kỹ thuật, giúp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến dưới khai thác hết công suất sử dụng trang thiết bị, góp phần tạo điều kiện người dân ở các địa phương đặc biệt là vùng sâu, vùng xa tiếp cận với dịch vụ y tế chất lượng cao với chi phí thấp. 

Tăng cường công tác chỉ đạo tuyến góp phần đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân, giảm quá tải ở bệnh viện tuyến trên. 

Thực hiện chỉ đạo tuyến chính là tạo điều kiện cho tuyến dưới tăng thêm uy tín trong cộng đồng do chữa được nhiều bệnh với chất lượng kỹ thuật cao hơn.

Thực hiện tốt nhiệm vụ chỉ đạo tuyến, giúp mối quan hệ đồng nghiệp, thầy trò giữa bệnh viện tuyến trên và bệnh viện tuyến dưới được tăng cường, gắn kết, đồng cảm. Nhiều hình thức liên hệ, trao đổi chuyên môn được hình thành giúp nâng cao năng lực chuyên môn tuyến dưới, nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh.

Trong quá trình thực hiện hoạt động đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, cầm tay chỉ việc hỗ trợ tuyến dưới, cán bộ tuyến trên được hoàn thiện nâng cao năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm, hiểu biết thêm về kiến thức xã hội, về môi trường làm việc của đồng nghiệp tuyến dưới, văn hóa địa phương, phong tục tập quán, hoàn cảnh sống của người dân…

Sự cấn thiết tăng cường hoạt động chỉ đạo tuyến

Thực hiện Nghị quyết số 46/NQ-TW ngày 23/2/2005 của Bộ Chính trị, thời gian qua, ngành y tế nói chung, hệ thống khám, chữa bệnh nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Cơ sở vật chất, trang thiết bị các bệnh viện được đầu tư, phát triển, khả năng tiếp cận với dịch vụ y tế của người dân được cải thiện, tuổi thọ trung bình của người dân tăng, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em giảm, nhiều dịch bệnh nguy hiểm được khống chế và đẩy lùi, tuy nhiên vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, bất cập, thách thức: 

Mô hình bệnh tật: Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác, hiện nay phải đối mặt với gánh nặng bệnh tật kép. Tỷ lệ mắc bệnh lây nhiễm, suy dinh dưỡng có xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức khá cao, trong khi nhóm các bệnhkhông lây nhiễm và tai nạn thương tích tăng nhanh, đồng thời một số bệnh lây nhiễm có tỷ lệ gia tăng: Chân tay miệng, quai bị, thủy đậu…[1]

Nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân ngày càng cao, vấn đề chăm sóc sức khỏe cũng có nhiều thay đổi. Với trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, việc tiếp cận dễ dàng với các thông tin về bệnh tật, về phương pháp chẩn đoán, điều trị mới, giao thông thuận lợi, người dân luôn mong muốn, đòi hỏi được chẩn đoán, điều trị bằng các kỹ thuật tốt hơn, được chăm sóc vào thời điểm thuận lợi hơn, thái độ phục vụ ân cần, chu đáo, bệnh phòng đầy đủ tiện nghi hơn, phương thức quản lý và chi trả viện phí giản tiện hơn, sẵn sàng từ chối những dịch vụ y tế mà hiệu quả không rõ ràng, lựa chọn các sơ sở khám, chữa bệnh mà bản thân cho là tốt hơn. Các cơ sở khám, chữa bệnh đã và đang nỗ lực để có thể từng bước đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của người bệnh và cộng đồng. 

Bất cập về nguồn nhân lực:Số lượng nhân lực y tế cho lĩnh vực khám chữa bệnh còn thiếu so với định mức biên chế và nhu cầu thực tế. Số bác sỹ trong cả nước đạt 6,59 bác sỹ/1 vạn dân[2]. Đây là một tỷ lệ thấp so với nhiều nước trong khu vực. Phân bố nhân lực y tế không đồng đều và tình trạng thiếu nhân lực y tế ở tuyến dưới, đặc biệt là tình trạng thiếu các bác sỹ có trình độ các chuyên khoa: Nhi, tâm thần, lao, đặc biệt thiếu các bác sỹ chuyên môn tay nghề cao. Đặc biệt miền núi, vùng sâu, vùng xa thiếu trầm trọng cán bộ y tế. Tây Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long có số cán bộ y tế /1 vạn dân thấp hơn nhiều so với số trung bình của cả nước.

Đa số cán bộ vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn làm việc trong môi trường trang thiết máy móc khám chữa bệnh thiếu thốn, lạc hậu, không có thầy hướng dẫn, không có điều kiện tiếp cận với các phương pháp chẩn đoán, điều trị tiên tiến, điều kiện học tập hạn chế dẫn tới trình độ chuyên môn hạn chế. Vì vậy, tuyến dưới, vùng miền núi, vùng sâu vùng xa, chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh kém hơn hẳn. Khả năng tiếp cận dịch vụ y tế hiện đại của người dân tuyến dưới, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển là rất hạn chế, dẫn đến sự mất công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Vấn đề quá tải ở bệnh viện tuyến trên trong nhiều năm qua đã và đang là vấn đề nổi cộm: 2 – 3 người bệnh chung một giường là tình trạng diễn ra ở nhiều bệnh viện tuyến Trung ương và tuyến tỉnh, công suất giường bệnh lên tới 120160%, đặc biệt tại các bệnh viện Trung ương ở hai thành phố lớn đối với các chuyên khoa ung bướu, tim mạch, ngoại chấn thương, sản, nhi, đa khoa như: K, Bạch Mai, Chợ Rẫy, Nhi Trung ương, Phụ sản Trung ương, bệnh viện Từ Dũ,

Ung bướu TP.HCM…công suất sử dụng giường vượt 165%, thậm trí trên 200%.  

Để giải quyết các bất cập nêu trên, trong nhiều năm qua ngành y tế đã có nhiều giải pháp, tăng cường hoạt động chỉ đạo tuyến, đào tạo, chuyển giao kỹ thuật nhằm không ngừng nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh tuyến dưới là một trong các giải pháp quan trọng.

Các văn bản chỉ đạo về chỉ đạo tuyến

“Dự thảo các chế độ, chức trách trong bệnh viện” và “ Hướng dẫn tổ chức công tác bệnh viện” năm 1961 quy định chỉ đạo tuyến trước là một trong 5 nhiệm vụ của bệnh viện.

“Tổ chức, chức trách, chế độ công tác bệnh viện” năm 1969, 1971 và 1978 khẳng định nhiệm vụ chỉ đạo tuyến trước của bệnh viện.

“Quy chế bệnh viện” năm 1997, quy định nhiệm vụ chỉ đạo tuyến dưới là một trong 7 nhiệm vụ của bệnh viện, nêu rõ nội dung, cơ cấu tổ chức chỉ đạo tuyến của các bệnh viện Hạng I, Hạng II và Hạng III. 

Chỉ thị số 09/2004/CT-BYT ngày 29 tháng 11năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc tăng cường công tác chỉ đạo tuyến trong lĩnh vực khám, chữa bệnh yêu cầu các đơn vị không ngừng hoàn thiện màng lưới chỉ đạo tuyến và thực hiện tốt các nội dung hoạt động chỉ đạo tuyến.

Quyết định số 1816/QĐ-BYT ngày 26 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt Đề án: “Cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trên, hỗ trợ bệnh tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh tuyến dưới”, là một hoạt động chỉ đạo tuyến đặc thù, góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và trình độ chuyên môn kỹ thuật tay nghề cho cán bộ y tế tuyến dưới và giảm tải từ xa cho các bệnh viện tuyến trên.

Quyết định số 3172/QĐ-BYT ngày 01tháng 9 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc phê duyệt Đề án: “Thành lập/kiện toàn Trung tâm/Phòng đào tạo chỉ đạo tuyến trực thuộc các bệnh viện hạng đặc biệt, hạng I trực thuộc Bộ Y tế”, nhằm góp phần củng cố, kiện toàn tổ chức, tăng cường hoạt động chỉ đạo tuyến.

Quyết định số 4026/QĐ-BYT ngày 20 tháng 6 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành quy định về việc phân công công tác chỉ đạo tuyến trong lĩnh vực khám, chữa bệnh. 

Quyết định số 5068/QĐ-BYT ngày 21tháng 12 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc quy định một số nội dung triển khai thực hiện đào tạo, chuyển giao kỹ thuật theo gói dịch vụ y tế theo Đề án 1816 từ năm 2013.

Quyết định số 14/QĐ-TTg ngày 20 tháng 02 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

Tổ chức màng lưới chỉ đạo tuyến hiện nay

Phòng chỉ đạo tuyến thuộc cục quản lý khám, chữa bệnh

Phòng Chỉ đạo tuyến và luân phiên luân chuyển cán bộ trực thuộc Cục Quản lý khám, chữa bệnh -Bộ Y tế được thành lập, kiện toàn theo Quyết định số

982/QĐ-BYT ngày 24 tháng 3 năm 2009, Quyết định số 458/QĐ-BYT ngày 8 tháng 2 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế.

Chức năng, nhiệm vụ: là bộ phận chuyên trách có chức năng giúp Cục trưởng Cục Quản lý khám, chữa bệnh thực hiện các nhiệm vụ được Bộ trưởng Bộ Y tế giao cho trong lĩnh vực chỉ đạo tuyến, thực hiện Đề án bệnh viện vệ tinh, Đề án bác sĩ gia đình, Đề án và công tác đào tạo, chuyển giao kỹ thuật theo Đề án 47, Đề án 930.

Cơ cấu tổ chức, nhân lực: Gồm 01 trưởng phòng và 04 cán bộ.

Trung tâm đào tạo, chỉ đạo tuyến trực thuộc các bệnh viện hạng đặc biệt, hạng i trực thuộc bộ y tế

Trung tâm đào tạo, chỉ đạo tuyến: Là đơn vị trực thuộc bệnh viện và chịu sự quản lý toàn diện của giám đốc bệnh viện. Tính đến tháng 5/2014 đã có 16 bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế được phê duyệt thành lập trung tâm đào tạo và chỉ đạo tuyến.

Chức năng: tham mưu, giúp giám đốc bệnh viện xây dựng chiến lược tổng thể, tổ chức thực hiện và quản lý tập trung việc thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, ứng dụng các tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong khám, chữa bệnh; đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, chuyển giao công nghệ kỹ thuật y học cho tuyến dưới; chỉ đạo kỹ thuật cho tuyến dưới, cử cán bộ đi luân phiên và chịu trách nhiệm trước Giám đốc bệnh viện về toàn bộ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, chỉ đạo tuyến và luân phiên cán bộ của bệnh viện. 

Nhiệm vụ:  

Đào tạo: điều phối và quản lý tập trung công tác đào tạo và phát triển các loại hình đào tạo, bao gồm: đào tạo liên tục, chuyển giao kỹ thuật cho cán bộ y tế; Đào tạo luân vòng cho bác sĩ, điều dưỡng mới tốt nghiệp; đào tạo chuyên khoa định hướng cho bác sĩ, điều dưỡng; phối hợp theo dõi và quản lý học viên hệ chính quy của các trường đại học Y, Dược, các trường cao đẳng, trung cấp y đến thực tập tại bệnh viện; phối hợp với các trường đại học, cao đẳng và trung cấp y, triển khai các loại hình đào tạo dài hạn, có bằng cấp chính quy, bác sĩ chuyên khoa I, bác sĩ chuyên khoa II; hợp tác, liên kết đào tạo nguồn nhân lực y tế và phát triển năng lực khám chữa bệnh của các tuyến điều trị với các dự án, đề án, chương trình, tổ chức trong nước và quốc tế. 

Nghiên cứu khoa học: điều phối, quản lý việc thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ và cấp cơ sở về hoạt động chuyên môn và quản lý y tế.

Chỉ đạo tuyến và luân phiên cán bộ: lập kế hoạch chỉ đạo tuyến, cử cán bộ chuyên môn luân phiên hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới thường xuyên và đột xuất khi có nhu cầu. Tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động hướng về cộng đồng, các chương trình y tế quốc gia, chăm sóc sức khỏe ban đầu; theo dõi, đôn đốc kiểm tra, đánh giá hiệu quả công tác chỉ đạo tuyến và luân phiên cán bộ hỗ trợ chuyên môn tuyến dưới; định kỳ sơ kết, tổng kết với tuyến dưới để có thông tin hai chiều, rút kinh nghiệm trong thực hiện, điều chỉnh hoạt động chỉ đạo tuyến và luân phiên cán bộ phù hợp với nhu cầu; thống kê, lưu trữ các tài liệu về hoạt động chỉ đạo tuyến, luân phiên cán bộ của bệnh viện.

Cơ cấu tổ chức, nhân lực, kinh phí hoạt động

Trung tâm đào tạo và chỉ đạo tuyến: 

Cơ cấu tổ chức: trung tâm đào tạo và chỉ đạo tuyến có giám đốc và các phó giám đốc; các phòng chức năng: Phòng đào tạo; phòng chỉ đạo tuyến và luân phiên; phòng nghiên cứu khoa học; văn phòng trung tâm

Nhân lực: 20 – 30 cán bộ và các cộng tác viên do giám đốc bệnh viện quyết định theo nhu cầu chuyên môn và qui mô, phạm vi hoạt động của trung tâm.

Kinh phí hoạt động từ nguồn Ngân sách Nhà nước cấp và các nguồn kinh phí hợp pháp khác.

Phòng đào tạo và chỉ đạo tuyến:

Cơ cấu tổ chức: phòng đào tạo và chỉ đạo tuyến có trưởng phòng và các phó trưởng phòng; gồm ba bộ phận chức năng: chỉ đạo hoạt động chuyên khoa tuyến dưới; đào tạo cán bộ chuyên khoa, nghiên cứu khoa học

Nhân lực, kinh phí: do giám đốc bệnh viện giao trong tổng biên chế và kinh phí chung của bệnh viện.

Cơ chế hoạt động:

Trung tâm/phòng đào tạo và chỉ đạo tuyến chịu sự quản lý toàn diện của Giám đốc bệnh viện theo qui định của pháp luật và có mối quan hệ phối kết hợp với các khoa, phòng của bệnh viện trong việc thực hiện nhiệm vụ

Trung tâm/phòng đào tạo và chỉ đạo tuyến có mối quan hệ hợp tác, liên kết đào tạo nguồn nhân lực y tế và phát triển năng lực khám chữa bệnh của các tuyến điều trị với các dự án, đề án, chương trình, tổ chức trong nước và quốc tế và các cơ sở đào tạo khác[3]

Phòng chỉ đạo tuyến trực thuộc các bệnh viện hạng i

Phòng chỉ đạo tuyến là phòng nghiệp vụ chịu sự lãnh đạo trực tiếp của giám đốc bệnh viện và chịu trách nhiệm trước giám đốc về toàn bộ hoạt động công tác chỉ dạo tuyến (chỉ áp dụng cho bệnh viện hạng I).

Nhiệm vụ:

Lập kế hoạch chỉ đạo tuyến dưới, trình giám đốc bệnh viện phê duyệt để tổ chức thực hiện

Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, đánh giá hiệu quả công tác hoạt động chuyên môn kỹ thuật của tuyến dưới

Phối hợp các chuyên khoa tổ chức thực hiện đào tạo liên tục cho cán bộ tuyến dưới, đồng thời làm tốt công tác nghiên cứu khoa học

Định kỳ sơ kết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm về công tác chỉ đạo tuyến, trình giám đốc Bệnh viện vào báo cáo cấp trên

Tổ chức thống kê, lưu trữ hồ sơ theo đúng quy chế bệnh viện.

Tổ chức: phòng chỉ đạo tuyến có trưởng phòng và 01 phó trưởng phòng. Phòng có các bộ phận: chỉ đạo hoạt động chuyên khoa ở tuyến dưới; đào tạo cán bộ chuyên khoa; nghiên cứu khoa học.[4]

Bộ phận chỉ đạo tuyến thuộc phòng kế hoạch tổng hợp các bệnh viện hạng ii, hạng iii

Bệnh viện Hạng II, Hạng III theo quy định tại Quy chế bệnh viện năm 1997, không có phòng chỉ đạo tuyến. 5 nhiệm vụ chỉ đạo tuyến sẽ được thực hiện bởi bộ phận chỉ đạo tuyến trực thuộc phòng kế hoạch tổng hợp.

Nhiệm vụ: Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện việc chỉ đạo tuyến dưới phát triển kỹ thuật chuyên khoa để nâng cao chất lượng cấp cứu – chẩn đoán và điều trị chuyên khoa trong địa phương. Kết hợp với các cơ sở y tế tuyến dưới thực hiện chương trình và kế hoạch chăm sóc sức khoẻ ban đầu trong địa phương.

Quy chế, nội dung, nhiệm vụ chỉ đạo tuyến

Quy chế chỉ đạo tuyến[5]

Xây dựng kế hoạch chỉ đạo tuyến:

Trong kế hoạch công tác hàng năm của bệnh viện nói riêng của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải có kế hoạch chỉ đạo tuyến.

Khám bệnh và chữa bệnh:

Hướng dẫn và tạo điều kiện cho tuyến dưới nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh, thực hiện đúng tuyến kỹ thuật. 

Thông báo kịp thời các sai sót về chuyên môn kỹ thuật

Kiểm tra việc thực hiện quy chế bệnh viện, quy định kỹ thuật bệnh viện

Hỗ trợ kỹ thuật khi có yêu cầu

Định kỳ sinh hoạt và lắng nghe ý kiến đóng góp của tuyến dưới.

Đào tạo cán bộ:

Nhận cán bộ chuyên môn của tuyến dưới về thực hành, nâng cao tay nghề.

Tổ chức các lớp đào tạo về chuyên môn kỹ thuật tại bệnh viện hoặc tại cơ sở.

Nghiên cứu khoa học công nghệ:

Thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học về chỉ đạo tuyến.

Hướng dẫn và phối hợp với tuyến dưới làm nghiên cứu khoa học.

Hướng về cộng đồng:

Cùng với tuyến dưới hướng về cộng đồng thực hiện chăm sóc sức khỏe ban đầu, giữ gìn vệ sinh môi trường, tham gia phòng chống dịch bệnh.

Sẵn sàng ứng cứu hỗ trợ tuyến dưới khi trong địa bàn có thảm họa và các tệ nạn xã hội.

Sơ kết, tổng kết:

Phải tổ chức sơ kết 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và tổng kết năm (12 tháng) việc chỉ đạo tuyến dưới theo kế hoạch của bệnh viện.

Nhiệm vụ của các đơn vị tuyến trên được phân công chỉ đạo tuyến:

Chỉ đạo tuyến công tác khám, chữa bệnh:

Khảo sát đánh giá năng lực chuyên môn và nhu cầu đào tạo của tuyến dưới. 

Hướng dẫn và tạo điều kiện cho tuyến dưới nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh, thực hiện đúng tuyến kỹ thuật; thông báo kịp thời các sai sót về chuyên môn kỹ thuật.

Kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn, quy trình kỹ thuật của đơn vị tuyến dưới.

Hỗ trợ kỹ thuật tuyến dưới khi có yêu cầu

Định kỳ sinh hoạt và lắng nghe ý kiến đóng góp của tuyến dưới

Xây dựng phương án chuyển tuyến trong phạm vi được phân công – Tổ chức thực hiện công tác đào tạo lại, đào tạo liên tục  cho cán bộ của các đơn vị tuyến dưới về chuyên môn kỹ thuật tại bệnh viện hoặc tại cơ sở

Tiếp nhận cán bộ chuyên môn của tuyến dưới về học tập thực hành, nâng cao tay nghề.

Tổ chức thực hiện công tác nghiên cứu khoa học – công nghệ: 

Thực hiện nghiên cứu khoa học về chỉ đạo tuyến

Hướng dẫn và phối hợp với tuyến dưới nghiên cứu xây dựng mô hình chuyển tuyến

Triển khai công tác hướng về cộng đồng: 

Cùng với tuyến dưới hướng về cộng đồng thực hiện chăm sóc sức khoẻ ban đầu, giữ gìn vệ sinh môi trường, tham gia phòng chống dịch bệnh

Sẵn sàng ứng cứu hỗ trợ tuyến dưới khi trong địa bàn xảy ra thảm họa, thiên tai và dịch bệnh

Tham gia phối hợp với đơn vị đầu ngành trong việc thực hiện nhiệm vụ chỉ đạo tuyến. 

Hàng năm các đơn vị tổ chức tổng kết việc thực hiện công tác chỉ đạo tuyến theo kế hoạch và báo cáo kết quả với đơn vị làm đầu ngành cho từng chuyên khoa, chuyên ngành. 

Nhiệm vụ của các đơn vị tuyến trên được phân công làm đầu ngành chỉ đạo tuyến công tác khám, chữa bệnh 

Giúp Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ, quy hoạch phát triển hệ thống mạng lưới chuyên ngành, chuyên khoa trên phạm vi toàn quốc, đồng thời chủ trì phối hợp với một số bệnh viện được phân công chỉ đạo tuyến. 

Lập kế hoạch đào tạo và tổ chức thực hiện giúp tuyến dưới phát triển kỹ thuật chuyên khoa, chuyên ngành để nâng cao chất lượng cấp cứu, chẩn đoán, điều trị, phòng bệnh. 

Xây dựng kế hoạch và chỉ đạo các cơ sở y tế tuyến dưới triển khai thực hiện các chương trình, dự án quốc gia, quốc tế. 

Theo dõi, kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của tuyến dưới. 

Hàng năm tổ chức tổng kết và tổng hợp, báo cáo kết quả công tác chỉ đạo tuyến trên toàn quốc với Bộ Y tế (Cục Quản lý khám, chữa bệnh) theo định kỳ, đột xuất. 

Nhiệm vụ của đơn vị tuyến dưới 

Tiếp nhận sự chỉ đạo và giám sát của đơn vị tuyến trên về chuyên môn nghiệp vụ trong các hoạt động chỉ đạo tuyến công tác khám, chữa bệnh. 

Xây dựng kế hoạch đề nghị đơn vị chỉ đạo tuyến tuyến trên hỗ trợ đào tạo cán bộ, đăng ký nhu cầu chuyển giao các quy trình kỹ thuật. 

Chuẩn bị đầy đủ về nhân sự, trang thiết bị, vật tư cần thiết khi tiếp nhận chuyển giao quy trình kỹ thuật từ đơn vị chỉ đạo tuyến tuyến trên. 

Hợp tác với đơn vị chỉ đạo tuyến tuyến trên khi tiến hành kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy chế chuyên môn, quy trình kỹ thuật tại đơn vị mình. 

Phối hợp cùng đơn vị chỉ đạo tuyến tuyến trên xây dựng mô hình chuyển tuyến. 

Thông báo kịp thời và đề nghị đơn vị tuyến trên hỗ trợ về chuyên môn nghiệp vụ khi có trường hợp vượt quá khả năng hoặc khi trên địa bàn có thảm họa, thiên tai, dịch bệnh. 

Báo cáo định kỳ, đột xuất với đơn vị chỉ đạo tuyến tuyến trên.[6]

Nguyên tắc phân công phạm vi chỉ đạo tuyến:

Phạm vi chỉ đạo tuyến của các bệnh viện được phân công dựa trên nguyên tắc:

Chỉ đạo tuyến theo các chuyên khoa, chuyên ngành.

Kết hợp giữa chuyên khoa và đa khoa.

Lựa chọn một đơn vị làm đầu ngành để chỉ đạo, tổ chức thực hiện, tổng hợp, thống kê, báo cáo cho từng chuyên khoa, chuyên ngành trên toàn quốc.

Căn cứ vào điều kiện thực tế và năng lực của các chuyên khoa, chuyên ngành và nhu cầu của các đơn vị để phân công phạm vi chỉ đạo tuyến phù hợp.

Phân công theo vị trí địa lý, miền, vùng, tỉnh/ thành phố tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các đơn vị tham gia công tác chỉ đạo tuyến.

Đảm bảo sự thống nhất giữa các vụ, cục thuộc Bộ Y tế và các đơn vị được phân công công tác chỉ đạo tuyến.

[1] Tỷ lệ mắc bệnh lây nhiễm đang giảm nhanh, từ khoảng 55% năm 1976 giảm xuống còn khoảng 28% năm 2002 và 22,9 % năm 2009 thì tỷ lệ mắc bệnh không lây nhiễm ngày càng tăng, từ 42,6% năm 1976 lên tới trên 60% năm 2003 và 66,3 % vào năm 2009, nhóm các bệnh tai nạn, ngộ độc chấn thương vẫn duy trì ở mức 10% (Báo cáo Tổng quan ngành  y tế 2011).

[2] Báo cáo Tổng quan ngành  y tế 2011.

[3] Quyết định số 3172/QĐ-BYT ngày 01/9/2009

[4] Theo quy định tại Quy chế bệnh viện năm 1997

[5] Theo quy định tại Quy chế bệnh viện năm 1997

[6]Quyết định 4026/QĐ-BYT ngày 20/10/2010