Nội dung

Chụp x quang thực quản- dạ dày

Đại cương

Hiện nay nhờ ưu điểm của nội soi ống mềm phối hợp sinh thiết trong chẩn đoán các bệnh lý dạ dày tá tràng có độ tin cậy khá cao, cùng với sự phát triển của các kỹ thuật hình ảnh Siêu âm, Cắt lớp vi tính, Cộng hưởng từ; nên vai trò của chụp X quang dạ dày tá tràng chỉ hạn chế trong một số trường hợp như đánh giá độ lan rộng của tổn thương ở dạ dày tá tràng, những trường hợp không nội soi được, hoặc những trường hợp người bệnh không hợp tác nội soi. Kỹ thuật này được thực hiện trên máy X quang tăng sáng truyền hình có bộ ép dùng cho chụp dạ dày, ruột. 

Chuẩn bị

Người thực hiện

Bác sỹ chuyên khoa          

Kỹ thuật viên điện quang 

Phương tiện

Máy chụp X quang tăng sáng truyền hình

Phim, cát-xét, hệ thống lưu trữ    

Vật tư tiêu hao

Thuốc đối quang đường uống (Barýt hoặc Micropaque, Gastrographine) 

Hơi: Để tăng cường độ rõ nét, chẩn đoán được các tổn thương bề mặt đa số các kỹ thuật được chụp đối quang kép, tức là xử dụng dịch treo Barýt tráng lớp mỏng, sau đó cho bơm thêm hơi vào dạ dày để tạo đối quang tốt hơn. 

Các thuốc giảm nhu động, giảm trương lực. 

Thuốc tăng nhu động.

Người bệnh  

Thăm khám nên được tiến hành vào buổi sáng, người bệnh cần nhịn đói không uống nước, không hút thuốc lá. Người bệnh không uống các loại thuốc có thành phần cản quang trong vòng 3 ngày trước khi chụp.

Dùng các thuốc tăng giảm nhu động dạ dày tá tràng: Các thuốc giảm nhu động sử dụng cho các người bệnh chụp dạ dày tá tràng giảm trương lực, để phân biệt các ổ nhiễm cứng. Thuốc tăng nhu động, tăng lưu thông thuốc qua môn vị trong trường hợp hẹp môn vị. Các loại thuốc trên nên tiêm 15 – 20 phút trước khi chụp phim.

Các bước tiến hành             

Cho người bệnh uống thuốc đối quang dạ dày 

Tiến hành chụp

Khám dạ dày cũng như thực quản cần đánh giá chức năng động, lưu thông qua thực quản. Hình thái thực quản gồm bờ, niêm mạc. 

Chụp phim hàng loạt (hai hoặc ba) trên cùng một tư thế, đồng thời chụp nhiều tư thế khác nhau, là điều quan trọng trong việc đánh giá chức năng của từng vùng.

Chụp niêm mạc

Người bệnh nằm ngửa và chếch nhẹ trước trái: nuốt 60ml Barýt. Bàn hơi dốc, thuốc Barýt trải ở mặt sau. 

Xoay người bệnh qua tư thế chếch sau phải, xoay qua xoay lại để thuốc bám vào niêm mạc mặt trước. 

Chụp 2 phim: một mặt trước, một mặt sau.

Chụp đầy thuốc

Bàn đứng, cho người bệnh uống 150 – 200ml: chụp 2 phim trong khi người bệnh nuốt, lấy đoạn nối thực quản, tâm vị, túi phình ở tư thế chếch trước phải. Khi dạ dày đầy thuốc, chụp một phim thẳng, chếch trước phải và một phim nghiêng 24x30cm.

Chuyển bàn nằm ngang, người bệnh nằm ngửa, chụp một phim 24x30cm.

Người bệnh nằm sấp và chếch trước phải để tách khung tá tràng khỏi hành tá tràng. Chụp sê-ri 4 ảnh trên phim 30x40cm. Với hệ thống kỹ thuật số có thể thu nhỏ hơn cỡ 18×24 cm, hoặc 35×43 cm chia 4 hình.

Chụp để tìm trào ngược thực quản, chụp ép khi cần thiết.

Chụp đối quang kép: 

Gồm có 2 thì chính:

N m ngửa chụp mặt sau.

N m sấp chụp mặt trước.

Tiêm 3 ống 5mg Tiémonium, người bệnh uống 15ml nước, sau đó uống thêm 70ml Barýt.

Bàn đứng, chụp một phim sau khi nuốt để chụp tâm vị thực quản.

Bàn nằm, người bệnh nằm tư thế chếch sau phải, xoay hoàn toàn, chụp một phim nằm ngửa. Xoay sang tư thế chếch sau phải, chụp phim khu trú vào hành tá tràng và tá tràng.

Nhận định kết quả 

Hiện hình rõ các cấu trúc giải phẫu của thực quản và dạ dày

Hiển thị được tổn thương (nếu có)

Tai biến và xử trí 

   Không chụp với thuốc đối quang Baryt ở những người bệnh có nghi ngờ thủng tạng rỗng hoặc tắc ruột.