Nội dung

Đời sống tình cảm

Khái niệm.

Trong đời sống cũng như trong các tài liệu tâm  lí  học,  thuật  ngữ  tình  cảm được sử dụng theo 2 nghĩa:

Lĩnh vực đời sống tình cảm của con người.

Thuộc tính nhân cách: tình yêu, lòng thù hận…

Lĩnh vực đời sống tình cảm của con người cũng là một chỉnh thể, bao gồm từ mức độ thấp như các rung  động  cho  đến cảm  xúc  và  phức  tạp nhất  là tình cảm. Để dễ phân biệt, thay vì gọi đời sống tình cảm, người ta thường dùng cụm từ cảm  xúc, tình cảm.

Mọi hoạt động của con người đều nhằm thoả  mãn  những nhu cầu nhất  định.  Nếu thoả mãn nhu cầu, con người cảm thấy khoan khoái, dễ chịu. Trái lại, nếu không được thoả mãn nhu cầu,  con người  cảm  thấy  khó  chịu,  bực  bội,  chán  nản. Toàn bộ những hiện tượng: vui sướng, bực bội, chán nản… là các hiện tượng cảm xúc.

Cảm  xúc,  tình cảm  là những  hiện tượng tâm  lí phản ánh mối quan hệ  của sự  vật hiện tượng có liên quan tới sự thoả mãn nhu cầu của chủ thể.

So sánh tình cảm và nhận thức:

 

Cảm xúc, tình cảm

Nhận thức

Nội dung phản ánh

Mối quan hệ giữa sự vật hiện tượng với nhu cầu, động cơ

Những thuộc tính, những mối quan hệ của sự vật hiện tượng

Phạm vi

Lựa chọn hơn (hẹp)

Rộng

Phương thức phản ánh

Rung cảm

Hình ảnh, biểu tượng, khái niệm

Tính chủ thể

Màu sắc chủ thể rõ nét

Có phụ thuộc

sở sinh lí của cảm xúc: có thể nói ở góc độ sinh lí, cảm xúc  được điều hành và kiểm soát bởi 2 cơ chế:  thần kinh và  thể  dịch. Sự gắn bó  chặt  chẽ  này là  cơ sở cho nhiều nghiên cứu đo các  phản  ứng  cảm  xúc  gián  tiếp qua các chỉ số  sinh lí (xem thêm phần stress).

Phân biệt cảm xúc và tình cảm:

 

Cảm xúc

Tình cảm

Quá trình

Thuộc tính, phẩm chất của nhân cách

Trạng thái hiện thời

Vừa hiện thực, vừa tiềm tàng

Có tính biến đổi

Ổn định

 

Khái quát thành tình cảm

Thể hiện qua cảm xúc

Có trước

Có sau

Kèm theo các biến đổi sinh lí

 

Các mức độ của tình cảm.

Sắc thái cảm xúc của cảm giác:

Đây là mức độ  thấp  nhất  của phản  ánh  cảm xúc,  đi  kèm theo  cảm giác. Ví  dụ, màu xanh lá cây thường gây  ra  trạng  thái  khoan  khoái,  nhẹ  nhõm;  màu  đỏ kèm theo một cảm xúc rạo rực, nhức nhối.

Trong tiếng Việt: đỏ lòm, xanh lè, inh tai, nhức óc…nói lên sắc  thái  cảm xúc  của cảm giác.

Sắc thái cảm xúc: thoáng  qua,  không  mạnh  mẽ,  mang  tính  chất  rất  cụ  thể, gắn liền với cảm giác nhất định và không được  chủ thể  ý thức  một  cách rõ  ràng, đầy đủ.

Rung cảm:

Rung cảm  là  những  cảm  xúc  ban đầu, có cường độ thấp, chưa biểu lộ  rõ  nét  ra bên ngoài. Những rung cảm thường thoáng qua, không rõ  nét  và  dễ  mất  đi,  không để lại dấu vết gì: buồn thoảng qua, vui thoảng qua…

Cảm xúc:

Đây là mức độ phản ánh cao hơn,  thường  là sự thể hiện cụ thể, trực tiếp một tình cảm nào đó.

Cảm xúc có những đặc điểm: xẩy ra nhanh, mạnh, rõ  rệt hơn so  với  màu sắc  của cảm xúc, được chủ thể ý thức rõ nét hơn.

Trong cảm xúc cũng có một số dạng đặc biệt:

Xúc động: xúc động là dạng cảm xúc có cường độ  mạnh,  xảy  ra trong thời gian ngắn, chủ thể vẫn  ý  thức  được  song khó  có khả năng làm chủ được  hành vi của mình (Cả giận mất khôn – thành ngữ).

Tâm trạng: tâm trạng là một dạng cảm xúc diễn ra trong một thời gian dài, cường độ thể hiện yếu, nhiều khi chủ thể không ý thức được nguyên nhân:

Hôm nay trời nhẹ lên cao

Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn. (Xuân Diệu)

Tâm trạng là một trạng thái tâm lí (cụ thể ở đây là cảm xúc), làm nền cho các hoạt động của con người và ảnh hưởng rõ rệt đến toàn bộ hành vi của chủ thể…

Trạng thái stress cũng là một trạng thái đặc biệt của cảm xúc. Nó  được xem ở góc độ là sự đáp ứng (cả về sinh lí, tâm  lí  và  hành  vi)  của chủ thể  đối với  những tác động/tình huống gây stress. Trạng thái  stress có thể ảnh hưởng tốt hoặc  không  tốt đến các hoạt động của con người.

Tình cảm:

Đó là thái độ ổn định của con người đối với  hiện thực xung  quanh và đối  với bản thân mình.

Tình cảm là thuộc tính của nhân cách. Nó có các đặc  điểm: ổn định, được  ý  thức rõ ràng.

Trong tình cảm có một dạng đặc biệt,  có  cường độ rất mạnh, thời gian tồn tại khá lâu dài và được ý thức rõ ràng:  sự say mê. Có  say mê tích cực nhưng  cũng có say mê tiêu cực thường được gọi là đam mê.

Con người có nhiều loại tình cảm khác nhau.  Có  thể phân chia thành tình cảm cấp thấp và tình cảm cấp  cao.  Tình  cảm cấp thấp liên quan  đến sự thoả mãn nhu  cầu sinh lí, tình cảm cấp cao liên quan đến sự  thoả  mãn  nhu  cầu  xã  hội  của người.

Các loại tình cảm.

Tình cảm đạo đức:

Tình cảm đạo đức là những  tình  cảm  có  liên quan đến sự thoả mãn nhu cầu  đạo đức của con người. Tình cảm đạo đức còn là sự thể hiện thái độ của con người đối với người khác, đối với xã hội và đối với trách nhiệm xã hội của bản thân.

Tình yêu tổ quốc, yêu quê hương, yêu ông bà cha mẹ…

Tình cảm trí tuệ:

Tình cảm trí tuệ là những tình cảm  nảy  sinh trong quá  trình hoạt  động trí óc. Nó liên quan đến nhận thức, sáng tạo,  đén sự  thoả  mãn  nhu  cầu  nhận  thức  của con người.

Tình cảm trí tuệ biểu hiện thái độ  của con người đối với  các ý nghĩ, tư tưởng, các quá trình và kết quả hoạt động  trí  tuệ.  Đó  là:  sự ham  hiểu biết, ngạc  nhiên, hoài nghi, tin tưởng…

Tình cảm thẩm mĩ:

Tình cảm thẩm mĩ là những tình cảm có  liên quan  đến nhu  cầu thẩm  mĩ, nhu cầu về cái  đẹp của  con người.  Tình cảm thẩm mĩ biểu hiện thái  độ thẩm mĩ của  con người đối với hiện thực (tự nhiên, xã hội, con người, lao động).

Các quy luật của tình cảm.

Quy luật lây lan:

Cảm xúc, tình cảm của người này có thể được truyền, “lây” sang người  khác: buồn lây, vui lây…

Tình cảm tập thể, tâm trạng tập thể,  tâm  trạng xã  hội  được  hình  thành  theo quy luật này.

Quy luật thích ứng:

Giống như cảm  giác,  cảm xúc,  tình cảm cũng có  hiện tượng thích ứng,  nghĩa  là khi chúng được lặp đi lặp lại nhiều lần thì cường độ bị  suy yếu và  lắng  xuống (chai dạn tình cảm). Hiện  tượng  “xa  thương,  gần  thường”  là  một  trong  những biểu hiện của quy luật này.

Quy luật tương phản (hay cảm ứng):

Đó là sự tác động qua lại  giữa  những  cảm  xúc  trái  chiều  nhau:  những  cảm xúc âm tính lại có thể làm tăng cường độ của cảm xúc dương tính và ngược lại.

Cũng như trong cảm giác, quy luật tương phản của cảm xúc, tình cảm diễn ra  theo 2 góc độ: tương phản kế tiếp và tương phản đồng thời.

Quy luật di chuyển:

Cảm xúc, tình cảm có thể được di chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác: “Yêu em yêu cả đường đi lối về  “ hoặc: “Giận  cá  chém thớt; Vơ đũa cả nắm” đều là những biểu hiện của quy luật này.

Quy luật pha trộn:

Quy luật pha trộn thể hiện ở chỗ trong một  loại  tình cảm cùng tồn tại  những cảm xúc trái dấu với  nhau.  Chúng  không  những  không  loại  trừ  nhau  mà  ngược lại, có thể còn diễn biến theo quy luật tương phản. Những cảm xúc yêu thương và ghen tuông có thể cùng tồn tại trong tình yêu.  Không  ít  trường  hợp  càng  yêu mãnh liệt, càng ghen dữ dội.

Quy luật về sự hình thành tình cảm:

Tình cảm được hình thành theo con đường tổng hợp hoá và khái quát  hoá các  cảm xúc cùng loại. Ví dụ, tình cảm của con cái đối với cha mẹ là do các cảm xúc dương tính do cha mẹ đem lại trong suốt quá  trình  lớn  khôn  của  đứa  trẻ  tạo thành.