Có thể nói giao tiếp đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động khám, chữa bệnh của người thầy thuốc. Giao tiếp cũng là một trong những công cụ cơ bản để xây dựng mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân. Trong chương trình đào tạo ở các trường y, hầu như không có một môn học nào hướng dẫn cho các sinh viên hình thành những kĩ năng giao tiếp thiết yếu với bệnh nhân cũng như người nhà của họ.
Trong bài giao tiếp, chúng tôi đã đề cập vấn đề giao tiếp ở cấp độ chung nhất. Trong bài này chúng tôi đi vào giao tiếp thầy thuốc – bệnh nhân, đặc biệt chú trọng đến các kĩ năng giao tiếp nghề nghiệp cần thiết của người thầy thuốc.
Các yếu tố ảnh hưởng đến giao tiếp thầy thuốc – bệnh nhân.
Cũng như bất kì một hoạt động giao tiếp nào, giao tiếp thầy thuốc-bệnh nhân chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường bên ngoài và bên trong.
Các yếu tố từ phía bệnh nhân:
Các triệu chứng cơ thể: yếu tố chung ở đây là đau. Đau có nhiều loại khác nhau: đau từng cơn, đau âm ỉ, đau quặn… Đau làm cho người bệnh khó khăn trong việc kể bệnh cũng như trả lời câu hỏi của bác sĩ.
Các yếu tố liên quan đến bệnh hoặc điều trị: trong phần tâm lí người bệnh chúng tôi đã đề cập, ở tầng bậc tâm lí, bệnh là một tác nhân gây stress rất lớn. Nó có thể làm cho người ta có mặc cảm, kém tự tin hoặc thậm chí còn gây ra lo âu, trầm cảm. Hoặc ngược lại, bệnh làm cho người bệnh phải bỏ dở một công việc, một dự định hay làm lỡ cơ hội nào đó khiến cho họ bực tức với chính mình. Tất cả những trạng thái tâm lí như vậy đều ảnh hưởng đáng kể đến giao tiếp thầy thuốc – bệnh nhân.
Các đặc điểm nhân cách của bệnh nhân: mỗi người có một kiểu tính cách nhất định. Người có nét tính cách hysteria thường hay nói nhiều và kèm theo nhiều điệu bộ. Người có nét tính cách nghi bệnh lại nói nhiều về những nghi ngờ của mình. Ngược lại cũng có người ít nói, bác sĩ hỏi đâu, người bệnh trả lời đấy.
Các yếu tố liên quan đến bác sĩ:
Kĩ năng giao tiếp đã có: những kĩ năng này có thể được hình thành trong quá trình học tập cũng như trong hoạt động nghề nghiệp của mình (quá trình tự đào tạo).
Mức độ tự tin vào khả năng giao tiếp: có nhiều sinh viên y khoa lúc đầu cảm thấy việc hỏi bệnh, tiếp xúc với bệnh nhân là công việc khá dễ dàng. Tuy nhiên khi trực tiếp tiếp xúc với bệnh nhân, họ không biết bắt đầu từ đâu.
Các đặc điểm nhân cách.
Các yếu tố sức khoẻ (ví dụ: mệt mỏi sau ca trực hay ca mổ).
Các yếu tố tâm lí (ví dụ: lo âu, bận tâm về điều gì đó).
Các kĩ năng giao tiếp cơ bản.
Bước chuẩn bị:
Khi cần thu thập những thông tin mang tính riêng tư, cần lựa chọn, dự kiến địa điểm giao tiếp đảm bảo yên tĩnh. Thông thường buổi hỏi bệnh như vậy được thực hiện tại buồng bác sĩ.
Vị trí ngồi: nhiều người chọn cách ngồi đối diện với bệnh nhân. Điều cần lưu ý là bác sĩ nên ngồi ngang tầm với bệnh nhân. Đặc biệt không nên đứng hỏi.
Khoảng cách: không nên quá gần vì dễ làm cho bệnh nhân e ngại, cũng không nên quá xa, dễ tạo cảm giác rằng bác sĩ không quan tâm nhiều tới những gì mà bệnh nhân chuẩn bị kể.
Mở đầu:
Với nhiều sinh viên y khoa, sau khi dự những buổi hỏi bệnh của các giáo sư có kinh nghiệm, họ thấy hỏi bệnh cũng khá đơn giản. Tuy nhiên đến lúc tự mình hỏi thì họ không biết bắt đầu như thế nào.
Mở đầu buổi hỏi bệnh có ảnh hưởng nhất định đến tiến trình tiếp theo. Những điều nên làm là:
Chào và mời bệnh nhân ngồi.
Một vài phút dành cho trò chuyện. Nên lựa chọn những gì mà cảm thấy bệnh nhân có hứng thú (lẽ đương nhiên là chưa nên nói gì về bệnh tật và điều trị). Vài phút như vậy vừa giúp bệnh nhân ổn định và giảm thiểu những lo ngại có thể có.
Bước tiếp theo: tự giới thiệu bản thân.
Nói rõ mục đích buổi hỏi bệnh.
Thông báo thời gian dự kiến.
Giải thích cho bệnh nhân rằng có thể bác sĩ cần phải ghi chép để không bỏ sót thông tin, rằng những thông tin này chỉ được phục vụ cho chuyên môn và bác sĩ vẫn phải bảo đảm tính riêng tư đó.
Phần chính:
Kĩ năng thu nhận thông tin:
Kĩ năng thu nhận thông tin thể hiện ở khả năng của người thầy thuốc dựa vào sự thể hiện cảm xúc, ngữ điệu, thanh điệu của ngôn ngữ, cử chỉ, động tác cũng như thời gian và không gian giao tiếp để phán đoán về trạng thái tâm lí của bệnh nhân.
Trong giao tiếp, nhất là giao tiếp trực tiếp, con người thường xuyên sử dụng nét mặt, điệu bộ, cử chỉ cùng với ngôn ngữ để truyền tải thông tin, cảm xúc cũng như thái độ của mình cho đối tượng.
Có thể nói trong các phương tiện phi ngôn ngữ, nét mặt thường được con người sử dụng một cách rất phong phú để biểu đạt cảm xúc, thái độ của mình. Từ cái nhìn buồn bã hay ánh mắt cầu cứu; nụ cười sung sướng hay những giọt nước mắt đau khổ… Tất cả những dấu hiệu đó đều được sử dụng để truyền tải thông tin.
Thông tin mà người thầy thuốc cần trước hết là những thông tin về bệnh tật: bệnh nhân đau ở đâu, cảm giác đau như thế nào, bắt đầu bằng những biểu hiện gì… Những thông tin từ phía người bệnh rất cần cho thầy thuốc trước khi đưa ra chẩn đoán hay cách thức điều trị. Đôi khi thầy thuốc chỉ quan tâm đến những thông tin về bệnh mà quên rằng những thông tin đó không hoàn toàn khách quan mà đã thông qua lăng kính chủ quan của người bệnh.
Cần phải chú ý lắng nghe những điều bệnh nhân kể. Cũng cần lưu ý rằng người bệnh rất để ý đến thái độ của bác sĩ khi họ kể bệnh. Nếu họ thấy bác sĩ chăm chú lắng nghe có nghĩa là bác sĩ thật sự quan tâm đến vấn đề của họ. Khi họ đã cảm thấy tin tưởng, họ có thể bộc bạch cả những điều chưa kể cho ai với hi vọng bác sĩ có thể giúp được họ.
“Giải mã” được các thông tin được truyền tải bằng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
Lược ghi những lời kể của bệnh nhân, xác định lại những điểm chưa rõ.
Hỗ trợ, giúp đỡ bệnh nhân kể.
Duy trì mạch hỏi chuyện, không để lạc đề.
Không nên để đứt đoạn mặc dù cũng có thể đôi chỗ cần dừng một chút.
Về phần cuối, nên tóm tắt những nội dung chính của câu chuyện.
Kĩ năng định vị:
Kĩ năng định vị thể hiện ở chỗ chủ thể xác định được vị trí của mình trong quan hệ với đối tượng. Trong giao tiếp, nhất là giao tiếp chính thức, con người thường ý thức được cương vị, vị trí của mình. Tuy nhiên cùng với các quan hệ chính thức, mỗi thành viên trong nhóm còn có các mối quan hệ khác với các thành viên khác. Ví dụ, giao tiếp giữa thầy thuốc với người bệnh là giao tiếp chính thức. Trên bình diện quan hệ thầy thuốc – người bệnh, những yêu cầu, mệnh lệnh điều trị của thầy thuốc thì người bệnh phải chấp hành. Trong quan hệ không chính thức, người bệnh có thể là người nhiều tuổi hơn người thầy thuốc hoặc là người có cương vị cao ngoài xã hội. Song đối với thầy thuốc, họ là người bệnh, người có nghĩa vụ phải tuân thủ mệnh lệnh điều trị của thầy thuốc.
Kĩ năng định vị còn thể hiện ở khả năng biết đặt mình vào vị trí của đối tượng giao tiếp để “nghĩ theo cách nghĩ của họ, hiểu theo cách hiểu của họ”. Với kĩ năng này, chủ thể giao tiếp không những luôn xác định được vị trí của mình mà còn có khả năng thấu hiểu sâu sắc những cảm xúc, trạng thái tâm lí của đối tượng. Kĩ năng này đóng vai trò quan trọng trong giao tiếp của những người làm công tác y tế với người bệnh. Những trạng thái tâm lí do bệnh hoặc liên quan đến bệnh rất cần được chia sẻ. Sự thấu hiểu, cảm thông của thầy thuốc ngay từ buổi gặp đầu tiên thực sự là liệu pháp tâm lí đối với người bệnh.
Kĩ năng làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân:
Kĩ năng làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân thể hiện ở khả năng của chủ thể biết tự kìm chế được tâm trạng khi cần thiết, biết điều chỉnh và điều khiển các diễn biến tâm lí của mình. Làm được điều này cũng không hề đơn giản.
Trong cuộc sống hàng ngày, con người có những trạng thái cảm xúc khác nhau. Khi giao tiếp với người khác, các trạng thái này ảnh hưởng (với các mức độ khác nhau) đến đối tượng giao tiếp. “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”. Câu thành ngữ, theo nghĩa rộng, nói lên sự lan truyền cảm xúc từ đối tượng này sang đối tượng khác trong nhóm.
Tuy nhiên trong nhiều dạng hoạt động thuộc nhóm nghề “người – người ” như thầy thuốc, thày giáo, nhân viên bán hàng…, do yêu cầu của công việc, chủ thể không được phép để các trạng thái tâm lí cá nhân, đặc biệt là những trạng thái cảm xúc âm tính như: buồn rầu, bực bội…ảnh hưởng đến đối tượng giao tiếp.
Trong hoạt động khám – chữa bệnh, người thầy thuốc cần phải có kĩ năng làm chủ trạng thái tâm lí của cá nhân. Mọi phiền muộn, lo âu của cuộc sống đời thường hay của công việc đều phải được “để vào trong tủ” khi thay áo công tác và đi vào buồng bệnh.
Kĩ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp:
Trong các phương tiện giao tiếp có ở con người, ngôn ngữ là phương tiện đặc trưng. Đây là cả một hệ thống tín hiệu vô cùng phong phú và cũng rất phức tạp. Tâm lí học đã chứng minh được rằng nếu nội dung của lời nói có tác động mạnh mẽ đến ý thức thì ngữ điệu lại có ảnh hưởng tới tình cảm của con người.
Khi bàn về vai trò của ngôn ngữ đối với tâm lí con người, một nhà giáo dục học Xô Viết đã nói: “Từ ngữ là sự tác động mạnh mẽ nhất tới trái tim, nó có thể trở nên mềm mại như bông hoa đang nở và nước thần, chuyển từ niềm tin và sự đôn hậu… một từ thông minh và hiền hoà tạo ra niềm vui, một từ ngu xuẩn hay tàn ác không suy nghĩ và không lịch sự đem lại sự thiếu tin tưởng hoặc làm giảm sức mạnh tinh thần”.
Trong hoạt động khám bệnh, mỗi lời nói của thầy thuốc đều được người bệnh chăm chú lắng nghe. Họ không chỉ nghe xem thầy thuốc nói gì mà còn xem nói như thế nào. Cũng là lời giải thích nhưng với một giọng khô cứng hoặc lạnh lùng khác với lời giải thích ân cần, trìu mến.
Phương tiện phi ngôn ngữ được con người luôn luôn sử dụng kèm theo ngôn ngữ trong giao tiếp chính là nét mặt. Kĩ năng sử dụng dạng phương tiện này thể hiện ở chỗ làm thế nào để không chỉ truyền tải tối đa, chính xác thông tin mà còn phải góp phần thể hiện tốt trạng thái tâm lí cần thiết, tác động tích cực lên đối tượng.
Sử dụng các câu hỏi phù hợp để thu được những thông tin cần thiết. Không nên hỏi dồn dập, câu hỏi không quá dài, không phức tạp, phải phù hợp với trình độ học vấn của bệnh nhân.
Bảng 8.1: Năm dạng câu hỏi phỏng vấn (Maloney & Ward, 1976).
Dạng |
Tầm quan trọng |
Ví dụ |
Câu mở |
Tạo cho bệnh nhân trách nhiệm và phạm vi rộng để trả lời |
Nào, tình hình sức khoẻ của anh hiện nay ra sao? |
Câu cụ thể |
Điều chỉnh, cổ vũ bệnh nhân duy trì hướng hỏi chuyện |
Anh có thể nói cụ thể hơn về vấn đề này được không? |
Câu sàng lọc |
Khuyến khích sự sàng lọc hoặc mở rộng |
Tôi đoán rằng điều này có nghĩa là chị cảm thấy… |
Câu đối lập |
Chỉ ra mâu thuẫn hoặc trái ngược |
Lúc trước anh lại nói rằng… |
Câu trực tiếp |
Một khi quan hệ đã được xác lập, bệnh nhân đã có trách nhiệm với đối thoại, những câu hỏi trực tiếp cũng có thể hữu ích. |
Chị đã nói với anh ấy như thế nào khi anh ấy phê phán sự lựa chọn của chị? |
Theo một cách phân loại (Maloney & Ward, 1976), có 5 dạng câu hỏi: câu mở, câu cụ thể, câu sàng lọc, câu đối lập và câu trực tiếp. Câu mở thường được sử dụng trong phần mở đầu của giao tiếp, khi bác sĩ chưa biết cụ thể vấn đề của bệnh nhân. Trong phần chính, tùy theo mục đích phỏng vấn, bác sĩ lựa chọn dạng câu hỏi phù hợp.
Giao tiếp trong một số tình huống đặc biệt.
Thông báo tin xấu:
Thông báo tin xấu là một phần không thể tránh khỏi trong thực tiễn y học. Nhiều thầy thuốc cảm thấy bối rối, lo ngại khi phải thông báo tin xấu cho bệnh nhân hoặc người nhà của họ. Điều này cũng dễ hiểu bởi trong các trường y người ta chưa dạy cho những thầy thuốc tương lai cách thông báo tin xấu. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ để cập đến khía cạnh người bệnh hoặc gia đình của họ có những phản ứng ra sao khi biết được tin xấu chứ chưa có những nghiên cứu về cách thức thông báo sao cho hạn chế mức độ thấp nhất những đau khổ chủ quan của người bệnh.
Những khó khăn khi phải thông báo tin xấu:
Thầy thuốc cảm thấy mình có một phần trách nhiệm trong đó và sợ bị buộc tội.
Không biết cách làm như thế nào là tốt nhất.
Sợ làm thay đổi vị thế trong mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân.
Chưa hiểu hết bệnh nhân.
Lo ngại những biến chứng, thay đổi hình dạng cơ thể, đau đớn cho bệnh nhân.
E ngại về những gánh nặng tài chính sắp tới cũng như những thay đổi về xã hội: vai trò, vị thế của bệnh nhân trong gia đình và nghề nghiệp.
Một số nguyên tắc thông báo tin xấu:
Giải thích trước rằng bạn sẽ nói về vấn đề gì.
Sử dụng các câu đơn giản, ngắn gọn, tránh các thuật ngữ chuyên môn khó hiểu.
Luôn kiểm tra xem người nghe có hiểu đúng những điều bạn nói.
Cách thức:
Cần phải có bước chuẩn bị cá nhân. Chuẩn bị ở đây bao gồm nội dung và cách thức sẽ thông báo, tâm thế của bản thân thầy thuốc. Chuẩn bị về thời gian, lựa chọn thời gian phù hợp, thậm chí có điều kiện thì có thể bố trí lịch trước đó nếu vấn đề khá nghiêm trọng. Chuẩn bị địa điểm, đảm bảo sự riêng tư một cách tương đối, không có người làm phiền. Ví dụ: tại buồng bác sĩ, bên ngoài có treo biển “Không làm phiền”.
Giao tiếp phải chậm, vừa với mức độ tiếp thu của bệnh nhân. Câu phải đơn giản, tránh lặp đi lặp lại cụm từ nào đó.
Lưu ý đến các kĩ năng giao tiếp phi ngôn ngữ, ví dụ: nhìn vào mắt bệnh nhân với ánh mắt chân tình.
Bắt đầu từ những gì mà bệnh nhân/người nhà đã biết.
Lắng nghe một cách tích cực. Giúp bệnh nhân huy động những tiềm lực của họ để đối phó.
Không nên đưa ra những lời động viên không có cơ sở cốt để yên lòng người bệnh. Tuy nhiên lại cần phải truyền cho họ niềm hi vọng thực tế.
Những điều không nên:
Không thông báo tin xấu khi vừa mới khám xong bệnh nhân, khi họ còn chưa mặc xong quần áo.
Không thông báo ngoài hành lang, qua điện thoại.
Không chạy đi, chạy lại khi đang nói chuyện.
Sau khi thông báo xong có thể thỏa thuận về việc theo dõi tiếp hoặc gợi ý giới thiệu đến chuyên gia khác hoặc đến tư vấn tâm lí nếu bệnh nhân có nhu cầu.
Giao tiếp với bệnh nhi:
Trẻ em cũng có thể bị những bệnh như người lớn. Tuy nhiên giao tiếp với bệnh nhi cũng có những điểm khác biệt nhất định. Trong khi một số bác sĩ vẫn cảm thấy thoải mái (thường là các thầy thuốc nữ) thì một số lại cảm thấy có những khó khăn nhất định.
Những khó khăn thường gặp khi giao tiếp với bệnh nhi:
Không biết nói như thế nào nếu như không dùng từ chuyên môn.
Trẻ sợ người lạ, do vậy hoặc là chúng khóc, hoặc là chúng im lặng.
Trước đây trẻ cũng đã bị bệnh và phải vào bệnh viện hoặc được thầy thuốc chữa trị. Có thể chúng vẫn còn ấn tượng đau đớn. Đặc biệt có những trường hợp hình tượng bác sĩ được đưa ra để dọa trẻ: “ăn đi, không mẹ gọi bác sĩ tiêm cho con. Bác sĩ mà tiêm là đau lắm”.
Thầy thuốc ngại gây đau đớn cho trẻ.
Sợ trẻ vặn vẹo, giãy giụa khi bị đau hoặc khó chịu (ví dụ, bị đè lưỡi để soi họng).
Ngại cha mẹ trẻ sợ quá mức rằng điều xấu có thể xảy ra với con của họ.
Cảm thấy khó hỏi khi có dấu hiệu trẻ bị lạm dụng.
Những điều nên và không nên làm khi giao tiếp với trẻ:
Nên:
Đặt mình ở vào tầm tuổi của trẻ để hiểu được những đặc điểm tâm lí của chúng.
Tạo được sự tự tin và hợp tác của trẻ trước khi khám.
Tìm hiểu được những ngôn từ mà trẻ sử dụng để gọi tên các bộ phận cơ thể.
Giải thích trước những việc cần làm, chuẩn bị cho trẻ không bị bất ngờ với tiếng ồn, mùi lạ và những kĩ thuật xét nghiệm, khám bệnh gây đau đớn hoặc những việc khác với thường ngày.
Luôn nói chuyện với trẻ bằng một giọng bình tĩnh ngay cả khi chúng vẫn khóc.
Yêu cầu cha mẹ cùng phối hợp, nhất là khi khám cho trẻ.
Cứ để trẻ lo ngại một chút về các kĩ thuật có thể gây đau hoặc gây khó chịu. Tuy nhiên đừng để lâu, tránh cho trẻ rơi vào trạng thái trầm cảm.
Nếu có thể, cứ để trẻ một mình ở chỗ lạ với những người lạ.
Không nên:
Phụ thuộc quá nhiều vào chuyện dỗ dành, cho quà. Làm như vậy dễ tạo cho trẻ quen được quà và sẽ đòi quà sau mỗi lần, ví dụ: tiêm thuốc.
Hứa những điều không thể, ví dụ: “Bác tiêm không đau đâu”. Trong trường hợp như vậy dễ làm trẻ hoảng sợ và mất lòng tin.
Sử dụng từ ngữ phức tạp hoặc thuật ngữ chuyên môn.
Nói chung khi cần thông tin cho trẻ điều gì đó thì nên kiểm tra lại xem trẻ có hiểu đúng hay không. Trong giao tiếp với trẻ, nhất là trẻ nhỏ, có thể sự dụng sự trợ giúp của đồ chơi, ví dụ, gấu bông nhỏ hay búp bê.
Thầy thuốc và cha mẹ của trẻ cần thống nhất và bình tĩnh. Thực tế cho thấy những đứa trẻ được giải thích trước một cách đầy đủ những gì cần phải làm, điều gì có thể xảy ra thì sẽ ít rơi vào trạng thái lo âu.
Vai trò của trò chơi và vẽ:
Trẻ có thể dễ dàng thể hiện thái độ của mình thông qua đồ chơi. Trong trường hợp có thể, bác sĩ nên yêu cầu cha mẹ trẻ đem theo một thứ đồ chơi yêu thích của trẻ.
Thầy thuốc cũng có thể sử dụng đồ chơi để trợ giúp giao tiếp, ví dụ: dùng búp bê để nói với trẻ hoặc nói với búp bê những điều cần làm, động viên sự can đảm.
Tại phòng đợi khám cho trẻ cũng cần được bố trí như một nhà trẻ, trên tường có các tranh vẽ với những nhân vật cổ tích quen thuộc. Nhiều bệnh viện nhi trên thế giới được thiết kế dành cho trẻ. Các buồng bệnh không đánh số mà là tên một con vật hoặc một loài hoa. Các trang thiết bị trong phòng cũng được thiết kế phù hợp với trẻ, ví dụ như tay nắm cửa ra vào vừa tầm với của trẻ.
Trang phục của bác sĩ:
Có một thực tế là một số trẻ em rất sợ áo blouse trắng của thầy thuốc bởi điều này đồng nghĩa với đau đớn do trẻ đã có kinh nghiệm trước đó hoặc do người lớn “dạy” qua dọa nạt.
Trong một số cơ sở điều trị, bác sĩ được phép mặc thường phục khi khám bệnh nhi để giảm căng thẳng. Ống nghe cũng có thể được trang trí sặc sỡ, nhiều màu ngộ nghĩnh. Một số bác sĩ giàu kinh nghiệm tiếp xúc với trẻ em thường thủ sẵn vài đồ chơi nhỏ trong túi áo công tác.
Nói chuyện với trẻ:
Không nên hỏi chuyện trẻ như hỏi với một đứa bé hơn bởi điều này dễ làm cho trẻ cảm thấy công việc không nghiêm túc. Cần phải làm cho trẻ thấy tự tin và được tôn trọng. Để tạo được sự tiếp xúc ban đầu, có thể trò chuyện với trẻ về trò chơi mà nó yêu thích.
Cũng có trường hợp do nhút nhát nên trẻ bám chặt lấy mẹ. Khi đó yêu cầu trẻ cứ ngồi với mẹ để bác sĩ khám. Lẽ đương nhiên cần yêu cầu cha mẹ trẻ hợp tác. Sau mỗi kĩ thuật, nên động viên và giải thích cho trẻ thấy thực ra những kĩ thuật đó cũng có thể gây đau nhưng không đến mức quá đau do đó cũng chẳng cần phải sợ.
Giao tiếp với người già:
Người phương Đông thường nói câu: sinh, lão, bệnh, tử. Con người sinh ra ở trên đời, đến một lúc nào đó thì cũng phải già, hay đau ốm. Tuổi già thường kéo theo tốc độ phản xạ chậm, suy giảm độ tinh tế của các vận động, dạng như ăn cơm hay rơi vãi. Nhịp sinh học cũng thay đổi, đêm ngủ ít, đi ngủ sớm nhưng dậy rất sớm, hoặc có trường hợp mất ngủ, mỗi đêm chỉ ngủ được khoảng 2 – 3 tiếng, giấc ngủ chập chờn, không sâu. Người già cũng dễ gặp các bệnh, ví dụ như về tim mạch, khớp, cột sống…
Một số đặc điểm tâm lí thường gặp ở người già: giảm sút trí nhớ, kém tập trung chú ý, tư duy chậm chạp, dễ thay đổi dấu của các phản ứng cảm xúc.
Toàn bộ những biến đổi về cơ thể và tâm lí, đối với người già đều là các vấn đề, song lại thường không được mọi người, đặc biệt là người trong gia đình, chú ý đến một cách nghiêm túc. Do vậy cũng không khó hiểu khi biết rằng người già dễ bị trầm cảm, cảm giác cô đơn, cách li, bị bỏ mặc.
Trong giao tiếp với người già, ngoài những đặc điểm trên, thầy thuốc cũng cần lưu ý đến một số khiếm khuyết thường gặp, ảnh hưởng trực tiếp đến giao tiếp, đó là giảm sút về ngôn ngữ và thính giác. Những khiếm khuyết này thường gặp trong những trường hợp tai biến mạch máu não.
Khi giao tiếp với những bệnh nhân có khiếm khuyết về ngôn ngữ, về thính giác, cần lưu ý một số điểm sau:
Không cố đoán những gì bệnh nhân định nói.
Sử dụng các phương tiện giao tiếp khác, ví dụ: tranh vẽ, kí hiệu, các câu đã được chuẩn bị để đọc.
Sử dụng “phiên dịch” nếu có. Trong trường hợp này thường là người nhà.
Kiểm tra lại xem bệnh nhân có hiểu đúng các thông tin đã được đưa ra.
Bệnh y sinh.
Khái niệm chung:
Bệnh y sinh là bệnh do nhân viên y tế gây ra. Ngoài cụm từ “bệnh y sinh”, trong các tài liệu tiếng Việt, cụm từ “bệnh do thầy thuốc” cũng thường được sử dụng.
Bệnh y sinh không phải là một đơn vị bệnh độc lập. Đó có thể là một bệnh mới, một triệu chứng mới hay đơn thuần là mức độ trầm trọng của bệnh tăng lên do lời nói, thái độ, hành vi thiếu thận trọng, thiếu cân nhắc của đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế gây ra.
Trong các cơ sở điều trị-giảng dạy, các bệnh viện thực hành, bệnh y sinh có thể là do những bất cẩn trong giao tiếp, hướng dẫn thực hành của giáo viên tại buồng bệnh với sự chứng kiến của bệnh nhân. Bệnh cũng có thể là do những non nớt, thiếu kinh nghiệm của sinh viên trong khi khám bệnh, hỏi bệnh làm bệnh án.
Bệnh y sinh cũng có thể là do sự buông lỏng quản lí hồ sơ bệnh án, bệnh nhân tò mò đọc nhưng không hiểu hết và đúng những ghi chép trong bệnh án.
Hiện nay cũng có những người cho rằng cần phải mở rộng phạm vi của bệnh y sinh, bao gồm cả những trường hợp các triệu chứng bệnh xuất hiện do sơ suất trong quá trình điều trị (dùng nhầm thuốc, dùng thuốc quá liều, dị ứng thuốc…).
Các nguyên nhân gây bệnh y sinh:
Chẩn đoán sai: không có bệnh nhưng lại được chẩn đoán là có bệnh, bệnh lành tính nhưng được chẩn đoán là ung thư.
Tiên lượng quá mức: bệnh có thể chữa khỏi nhưng do quá dè dặt lại nói rằng rất khó chữa khỏi, rằng có thể chuyển sang mạn tính, hoặc có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Hỏi bệnh vụng về: hỏi quá nhiều về một hoặc một số triệu chứng bệnh nào đó khiến bệnh nhân rất hoang mang. Bệnh nhân càng lo lắng hơn khi lại được nghe những câu giải thích không rõ ràng, gẫy gọn, có những thuật ngữ chuyên môn khó hiểu.
Khám bệnh vụng về: quá chú trọng vào một cơ quan, bộ phận, khám đi khám lại nhiều lần làm cho bệnh nhân nghi ngờ là mình bị bệnh nặng ở cơ quan, bộ phận đó.
Dùng thuốc quá mức cần thiết hoặc không đúng bệnh: bệnh nhẹ nhưng dùng thuốc đắt tiền, dùng nhiều loại thuốc khác nhau, dùng vội vã khi chưa xác định rõ chẩn đoán, vội vã thay đổi thuốc.
Trong khi hướng dẫn đầu giường hoặc minh hoạ lâm sàng lại giảng về những triệu chứng không có ở bệnh nhân, làm cho bệnh nhân lo lắng hoặc “học” được các triệu chứng và rồi xuất hiện các triệu chứng bệnh.
Bác sĩ hoặc điều dưỡng viên thể hiện sự lo lắng quá mức của mình qua nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, ngôn ngữ.
Phòng bệnh y sinh:
Để phòng ngừa các chứng bệnh y sinh, thầy thuốc, điều dưỡng viên và các nhân viên y tế, sinh viên y khoa cần lưu ý những điểm sau:
Không để cho bệnh nhân biết những chẩn đoán sơ bộ, chưa chính xác, những chẩn đoán phân biệt, loại trừ.
Cần thận trọng, có cân nhắc khi trả lời những câu hỏi của bệnh nhân về bệnh cũng như về tiên lượng bệnh. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là rụt rè, là lấp lửng bởi như vậy lại càng làm cho bệnh nhân thêm lo lắng, tìm mọi cách để biết “sự thật”.
Khi khám bệnh cũng như hỏi bệnh cần tỉ mỉ, cẩn thận song cũng cần lưu ý không nên hỏi chi tiết, khám kĩ chỉ một bộ phận, một vấn đề nào đó.
Dùng thuốc đúng bệnh, không nên dùng thuốc bao vây, không nên dùng các thuốc trợ lực, bồi dưỡng nếu không cần thiết.
Không thảo luận bệnh án ngay tại đầu giường của bệnh nhân.
Hãy lưu ý rằng người thầy thuốc điều trị cho người bệnh không chỉ bằng thuốc hay bằng con dao mổ mà còn bằng lời nói, cử chỉ của mình. Mọi hành vi của thầy thuốc trong bệnh viện đều được bệnh nhân quan sát, mọi lời nói của thầy thuốc đều được bệnh nhân chú ý lắng nghe. Do vậy không chỉ là tránh gây ra các triệu chứng bệnh y sinh mà người thầy thuốc còn cần phải biết cách gieo vào lòng bệnh nhân sự tin tưởng: tin tưởng vào thầy thuốc, tin tưởng vào bản thân; phải biết cách giúp cho người bệnh huy động những tiềm năng của mình đấu tranh chống lại bệnh tật.