Hình ảnh lâm sàng trong ung thư da: Ung thư da không phải hắc tố (Nonmelanoma Skin Cancer)
Giới thiệu
Ung thư da được chia thành ung thư da hắc tố ( Melanoma ) và ung thư da không phải hắc tố (Nonmelanoma Skin Cancer, NMSC). Do nguy cơ di căn tương đối thấp của ung thư biểu mô tế bào vảy (Squamous cell carcinoma, SCC) và nguy cơ di căn cực kỳ thấp của ung thư tế bào đáy (Basal cell carcinoma, BCC), đây là hai loại ung thư da phổ biến nhất, phần lớn được coi là NMSC. Thuật ngữ này hơi bị nhầm lẫn; có nhiều khối u ác tính biểu bì khác không phải là u hắc tố, nhưng do hành vi xâm lấn tích cực hơn của chúng nên có xu hướng không được xếp vào nhóm với biệt danh này.
BCC là loại ung thư da phổ biến nhất. Nó phát sinh từ các tế bào sừng nền của biểu bì. Biểu hiện phổ biến nhất là một sẩn hoặc mảng bám màu hồng, hình quả lê trên vùng da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Các yếu tố nguy cơ đối với BCC bao gồm da trắng, tiếp xúc với ánh nắng mặt trời lâu dài và bức xạ ion hóa. Bệnh nhân trên 40 tuổi dễ bị BCC hơn, mặc dù dữ liệu gần đây đã chỉ ra rằng tỷ lệ mắc BCC đang tăng lên ở những bệnh nhân trẻ tuổi (Christenson và cộng sự 2005).
Vị trí phổ biến nhất cho BCC là mặt, đặc biệt là mũi. Bệnh nhân có thể kể lại tiền sử vết sưng hoặc vết trầy không bao giờ lành hoàn toàn hoặc dễ chảy máu. Vì BCC có xu hướng phát triển chậm, một tổn thương có thể xuất hiện trong nhiều tháng hoặc nhiều năm trước khi bệnh nhân tìm kiếm sự chăm sóc y tế. Vì lý do này, những bệnh nhân có nguy cơ nên khám da toàn bộ định kỳ. Ánh sáng thích hợp là điều tối quan trọng trong việc phát hiện BCC ở giai đoạn sớm nhất của chúng.
SCC là loại ung thư da phổ biến thứ hai. Nó cũng phát sinh từ các tế bào sừng của biểu bì. Nó thường biểu hiện dưới dạng sẩn vảy, mảng hoặc nốt trên vùng da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Các yếu tố nguy cơ đối với SCC cũng giống như đối với BCC và ngoài ra, bao gồm hút thuốc lá. Vị trí phổ biến nhất đối với SCC là da đầu và cổ. Giống như BCC, nó thường được thấy ở những bệnh nhân lớn tuổi hơn, mặc dù những bệnh nhân trẻ hơn có khả năng tiếp xúc với ánh nắng mặt trời đáng kể và màu da trắng có nguy cơ phát triển SCC cao hơn. Không giống như BCC, SCC có thể phát triển nhanh chóng và làm tăng nguy cơ di căn, đặc biệt là ở những bệnh nhân bị ức chế miễn dịch mãn tính, chẳng hạn như những người ghép tạng.
Điều trị nonmelanoma skin cancer
Có nhiều phương pháp điều trị NMSC đã được xác định bằng sinh thiết. Chúng khác nhau tùy thuộc vào chẩn đoán, loại mô học của ung thư, vị trí giải phẫu và nhiều yếu tố lâm sàng. Một số yếu tố liên quan đến việc quyết định điều trị một tổn thương cụ thể được liệt kê trong Bảng 3.1.
Các khối u tái phát và di căn chiếm phần lớn tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến ung thư da, và các khối u cho thấy bất kỳ yếu tố nào liên quan đến tái phát và di căn nên được coi là “nguy cơ cao”. Đặc biệt, một số phân nhóm mô học của BCC và SCC có liên quan đến tỷ lệ tái phát cao hơn. Các khối u không có yếu tố nào trong số này có thể được coi là “nguy cơ thấp”. Các yếu tố nguy cơ này được liệt kê trong Bảng 3.2. Quyết định này có ý nghĩa then chốt trong việc quản lý các bệnh ung thư da, cả trong việc xác định phương pháp điều trị và xác định bác sĩ nào nên điều trị tổn thương.
Hình 3.1 và 3.2 có thể được sử dụng để giúp quyết định phương pháp nào có thể thích hợp nhất trong việc điều trị BCC và SCC đã được xác định bằng sinh thiết.
Dưới đây, chúng tôi sẽ tóm tắt lại các phương pháp điều trị ung thư da được sử dụng phổ biến nhất. Bảng 3.3 liệt kê một số ưu điểm và nhược điểm của từng loại.
Điều trị tại chỗ
Như đã nhắc đến trong Chương 2, các liệu pháp điều trị tại chỗ, bao gồm PDT, 5- fluorouracil, và imiquimod gần đây đã bắt đầu được sử dụng trong điều trị các tổn thương tiền ác tính và các khối u ác tính bề mặt như BCC nông và SCC tại chỗ. Dữ liệu liên quan đến việc sử dụng PDT cho BCC nông và SCC tại chỗ tương đối hạn chế, mặc dù một số quy trình điều trị đã dẫn đến tỷ lệ chữa khỏi đầy hứa hẹn (Tierney et al. 2009). Sau một số thành công trong việc điều trị dày sừng ánh sáng, imiquimod và 5-FU gần đây đã được FDA chấp thuận để điều trị BCC nông trên thân và tứ chi. Tỷ lệ chữa khỏi cho cả hai phương pháp điều trị tại chỗ này dao động từ 50% đến 90% tùy thuộc vào loại khối u, tần suất bôi và thời gian điều trị (Marks et al. 2004; Gross et al. 2007; Peris et al. 2005 ; Gollnick và cộng sự 2008).
Điều quan trọng cần lưu ý là cả hai loại thuốc điều trị tại chỗ này đều không được FDA chấp thuận cho bất kỳ loại subtype mô học nào khác của BCC. Tương tự, cả hai loại thuốc này đều không được FDA chấp thuận cho bất kỳ loại BCC nào, bất kể loại subtype nào, trên da mặt, cổ hoặc da đầu. Việc lựa chọn bệnh nhân và khối u là rất quan trọng.
Bảng 3.1 Các yếu tố quan trọng đối với việc quản lý thích hợp trên bệnh nhân ung thư da.
Yếu tố bệnh lý |
Yếu tố bệnh nhân |
Yếu tố điều trị |
Loại |
Tiên lượng sống |
Trình độ và kỹ năng bác sĩ |
Mô hình bệnh sinh |
Điều kiện kèm theo |
Tỷ lệ chữa khỏi của phương pháp |
Nguyên phát và tái phát |
Vấn đề thẩm mỹ |
Bảo tồn chức năng |
Kính thước |
|
Tỷ lệ mắc bệnh |
Vị trí giải phẫu |
|
Thẩm mỹ |
|
|
Chi phí |
Bảng 3.2 Hướng dẫn của NCCN: các yếu tố nguy cơ tái phát NMSC.
Yếu tố nguy cơ trên lâm sàng |
Nguy cơ thấp |
Nguy cơ cao |
Vị trí / kích thước |
L – M – H – |
L – 320 mm M – 310 mm H – 36 mm |
Bờ |
Xác định rõ |
Kém rõ |
Nguyên phát vs thứ phát |
Nguyên phát |
Thứ phát |
BN bị ức chế miễn dịch |
Không |
Có |
Khối u tại vị trí đã XRT trước đó hoặc mãn tính |
Không |
Có |
U phát triển nhanh (cho SCC) |
Không |
Có |
Triệu chứng TK: đau, dị cảm, liệt |
Không |
Có |
Yếu tố nguy cơ bệnh lý |
|
|
Subtype (cho BCC) |
Nốt sần, bề mặt |
Thâm nhiễm, dạng nốt nhỏ, xơ cứng |
Mức độ phâc biệt |
Phân biệt tốt |
Phân biệt vừa phải-> kém |
Độ sâu: độ dày của Clark |
I, II, III hoặc |
IV, V hoặc 36 mm |
Sự liên quan đến tầng sinh môn hoặc mạch máu |
Không |
Có |
Vùng L có nguy cơ tái phát thấp: thân, tứ chi; vùng M có nguy cơ tái phát trung bình: má, trán, cổ, da đầu; vùng H có nguy cơ tái phát cao: giữa mặt, mí mắt, mũi, cằm, hàm dưới, trước tai và sau tai, thái dương, tai, cơ quan sinh dục, bàn tay và bàn chân
Hình 3.1 Mô hình điều trị cho BCC dựa trên các yếu tố lâm sàng và bệnh lý (đã được chỉnh sửa và tái bản với sự cho phép của Mayo Clinic Proceedings)
Hình 3.2 : Mô hình điều trị SCC dựa trên các yếu tố lâm sàng và bệnh lý (đã được chỉnh sửa và tái bản với sự cho phép của Mayo Clinic Proceedings
Phương thức điều trị |
Ưu điểm |
Nhược điểm |
Kem bôi ngoài da (5-Fluorouracil / Imiquimod) |
Đơn giản để sử dụng Bệnh nhân có thể thực hiện tại nhà Không xâm lấn Khả năng cho kết quả thẩm mỹ tốt Có thể giúp tránh phẫu thuật |
Không có nhiều dữ liệu dài hạn về tỷ lệ chữa khỏi Không kiểm soát bờ tổn thương Chỉ được FDA chấp thuận cho một nhóm nhỏ các bệnh ung thư da bề mặt Thời gian điều trị kéo dài (6–16 tuần) Có thể dẫn đến mẩn đỏ và kích ứng đáng kể Có thể ” vùi lấp” khối u dai dẳng, cần điều trị phẫu thuật rộng hơn trong tương lai |
PDT |
Đơn giản để thực hiện Kỹ thuật không xâm lấn Kết quả thẩm mỹ tốt Ít hạn chế hoạt động sau thủ tục |
Thiết bị chuyên dụng cần thiết Không kiểm soát bờ tổn thương Có thể đau nhẹ Vẫn đang nghiên cứu trong điều trị ung thư da Bệnh nhân phải tránh nắng trong 24–48 h |
Đốt điện và nạo Electrodesiccation & Curettage |
Thiết bị tối thiểu cần thiết Đơn giản để thực hiện Không tốn kém Ít hoặc không hạn chế hoạt động sau phẫu thuật |
Không kiểm soát bờ tổn thương Lành thương chậm Hiệu quả thẩm mỹ dưới mức tối ưu |
Phẫu thuật Mohs |
100% kiểm soát chi tiết bờ tổn thương Bảo tồn cao nhất các mô và cấu trúc bình thường Tỷ lệ chữa khỏi cao nhất Kết quả thẩm mỹ tốt nhất trong các lựa chọn phẫu thuật |
Cần đào tạo chuyên ngành và cơ sở vật chất Tốn thời gian để kiểm soát bờ tổn thương Hạn chế hoạt động sau phẫu thuật |
Cắt bỏ |
Tương đối dễ thực hiện Kiểm soát bờ tổn thương tốt hơn ED&C Lành thương nhanh Kết quả thẩm mỹ tốt |
Kiểm soát bờ tổn thương ít hơn phẫu thuật Mohs Yêu cầu thiết bị và hỗ trợ Ít bảo tồn mô Hạn chế hoạt động sau phẫu thuật |
Xạ trị XRT |
Tỷ lệ chữa khỏi tốt đối với ung thư nguyên phát và tái phát Hữu ích trong các trường hợp không thể phẫu thuật hoặc bệnh nhân không thích hợp để phẫu thuật |
Không kiểm soát bờ tổn thương Đắt tiền Điều trị lặp đi lặp lại trong vòng 2–6 tuần Khả năng sinh ung thư ở bệnh nhân trẻ |
Đốt điện và nạo (ed&c)
Đây là một cách đơn giản để điều trị ung thư da trong phòng khám. Kỹ thuật này hiệu quả nhất để điều trị ung thư da bề mặt, đã được xác định rõ (ví dụ: BCC nông hoặc SCC tại chỗ). Tỷ lệ chữa khỏi ung thư da nguyên phát, ranh giới rõ có thể vượt quá 80% (Rodriguez-Vigil et al. 2007) (Hình. 3.3–3.15).
Hình 3.3: Vị trí tổn thương hoặc sinh thiết được xác định, sạch, các bờ được khoanh vùng
Hình 3.4: Sau khi thuốc tê đã được ngấm, dùng lực kéo ba điểm bằng hai ngón tay của bàn tay không thuận và ngón thứ năm của bàn tay thuận, giữ chuôi thìa nạo 4 mm
Hình 3.5: Trong khi giữ lực kéo ba điểm, sử dụng nạo để loại bỏ tổn thương, nạo bỏ biểu mô và các mô vụn ở đáy và ngoại vi
Hình 3.6: Vết thương sau một lần nạo
Hình 3.7: Dao điện được sử dụng để điều trị ngoại vi và toàn bộ nền của khu vực nạo
Hình 3.8: Vết thương sau một lần nạo và dùng dao điện
Hình 3.9: Việc nạo được lặp lại như trong hình 3.5, cẩn thận loại bỏ tất cả các than ở ngoại vi và đáy của vết thương
Hình 3.10: Vết thương sau lần nạo thứ hai
Hình 3.11: Đốt điện được lặp lại, chú ý điều trị hoàn toàn vùng ngoại vi đầu tiên
Hình 3.12: Dao điện được sử dụng đốt phần bên trong còn lại của tổn thương sau khi xử lý xong vùng ngoại vi
Hình 3.13: Chiếc nạo 2 mm được sử dụng để nạo lần thứ ba và lần cuối, một lần nữa cẩn thận loại bỏ tất cả than do đốt điện
Hình 3.14: Vết thương sau lần nạo thứ ba
Hình 3.15: Vết thương sau lần thứ ba và cuối cùng đốt điện, có sự co lại của mô từ điều trị bằng điện.
Sự co lại nhiều hơn khi vết thương lành sẽ dẫn đến một vết sẹo giảm sắc tố nhỏ hơn đáng kể so với vùng được đánh dấu ban đầu
Phẫu thuật cắt bỏ
Phẫu thuật cắt bỏ với phần rìa của da không bị tổn thương về mặt lâm sàng là phương pháp điều trị chính cho NMSC trên thân và tứ chi. Phần lớn các lần cắt bỏ này được thực hiện bằng cách sử dụng đường cắt hình elip tiêu chuẩn và khâu đóng. BCC và SCC với các đặc điểm rủi ro thấp được cắt bỏ với bờ 4 mm; bờ 6 mm nên được sử dụng cho BCC và SCC nguy cơ cao nếu muốn phẫu thuật cắt bỏ và phẫu thuật Mohs không khả thi. (Brodland và Zitelli 1992; Wolf và Zitelli 1987)
Đánh giá có hệ thống sử dụng dữ liệu trong 5 năm báo cáo tỷ lệ chữa khỏi là 90– 92% sau phẫu thuật cắt bỏ thông thường (Rowe và cộng sự 1992, 1989) (Hình.3.16– 3.40).
Hình 3.16: Vị trí sinh thiết và bờ được đánh dấu, hình elip
Hình 3.17: Kim được đưa vào lớp bì và tiêm thuốc tê
Hình 3.18: Tiêm thuốc tê
Hình 3.19: Kỹ thuật tiêm rẽ quạt: kim được chuyển hướng mà không rút hoàn toàn khỏi da
Hình 3.20: Gây tê vùng trung tâm và dưới sâu của hình elip
Hình 3.21: Kiểm tra gây tê bằng cách chạm nhẹ bằng đầu kim xung quanh ngoại vi của hình elip
Hình 3.22: Vị trí phẫu thuật được chuẩn bị sẵn
Hình 3.23: Sát khuẩn, di chuyển vòng tròn đồng tâm ra khỏi hình elip
Hình 3.24: Bắt đầu rạch, giữ cho mép lưỡi dao vuông góc với da. Lưỡi dao được điều chỉnh cho phần bụng chứ không phải phần đầu của lưỡi dao tiếp xúc với bề mặt da
Hình 3.25: Dùng lực mạnh để rạch cùng một lúc qua lớp bì và vào lớp mỡ dưới da
Hình 3.26: Cẩn thận để mép lưỡi vuông góc với bề mặt da
Hình 3.27: Cạnh đối diện được rạch tương tự
Hình 3.28: Cẩn thận khi rạch gần đỉnh không để lại vết băm ở mép da
Hình 3.29: Tổn thương khi được giải phóng hoàn toàn khỏi các mép da
Hình 3.30: (a, b) Lưỡi dao được sử dụng để loại bỏ bệnh phẩm ở một độ sâu duy nhất, phẳng trong mô dưới da
Hình 3.31: (a, b) Vùng khuyết hiện sẵn sàng để chuẩn bị đóng lại
Hình 3.32: Bóc tách dưới da bằng cách sử dụng dao mổ. Bắt đầu ở một trong hai đầu
Hình 3.33: Dùng móc da kéo nhẹ. Tiếp tục bóc tách dọc theo mép vết thương. Đảm bảo phá hủy hoàn toàn các cạnh của hình elip
Hình 3.34: Dao điện được sử dụng để cầm máu
Hình 3.35: Khâu một vết sâu bên trong để giảm sức căng khi đóng vết thương
Hình 3.36: Khâu nếp vết thương
Hình 3.37: (a – c) Mũi khâu đầu tiên
Hình 3.37 (tiếp tục)
Hình 3.38: Bốn vết khâu đệm chôn tại chỗ. Lưu ý sự đóng hoàn chỉnh của các cạnh vết thương và lật của mép vết thương
Hình 3.39: Keo dán da được bôi dọc theo chiều dài của vết may để dán các mép biểu bì
Hình 3.40: Chỗ phẫu thuật hiện đã sẵn sàng để băng dán
Vi phẫu thuật mohs
Vi phẫu thuật Mohs là một kỹ thuật chuyên biệt về cắt bỏ và kiểm tra bờ tổn thương mang lại tỷ lệ chữa khỏi cao nhất và bảo tồn tối đa mô bình thường. Tỷ lệ chữa khỏi liên quan đến phẫu thuật Mohs để điều trị BCC và SCC được thiết lập tốt và đạt tới 99%. Kỹ thuật này đặc biệt phù hợp với các khối u có nguy cơ cao như những khối u kiểu xâm lấn (trong BCC dạng thâm nhiễm hoặc xơ cứng, SCC tế bào trục chính), khối u tái phát, tổn thương lớn (> 2 cm trên cơ thể, lớn hơn 0,6–1,0 cm trên mặt), hoặc các khu vực mà việc bảo tồn mô là rất quan trọng (ví dụ: mí mắt, mũi, tai, môi, cơ quan sinh dục và cẳng chân).
Phương pháp này được thực hiện theo từng giai đoạn, theo đó bác sĩ phẫu thuật ban đầu sẽ gây tê và cắt bỏ khối u có dấu hiệu lâm sàng hoặc vị trí sinh thiết. Trong khi bệnh nhân chờ đợi với băng tại chỗ, phẫu thuật viên kiểm tra 100% bờ phẫu thuật để đảm bảo rằng toàn bộ khối u đã được loại bỏ. Nếu khối u được cắt bỏ hoàn toàn trong giai đoạn đầu, bệnh nhân được coi là “sạch” khối u và khiếm khuyết đã sẵn sàng được sửa chữa. Tuy nhiên, nếu có khối u còn sót lại được ghi nhận trên bảng kiểm tra mô, bác sĩ phẫu thuật có thể xác định chính xác mô nào vẫn còn liên quan và sau khi đánh dấu trên bản đồ giải phẫu, bệnh nhân trở lại để thực hiện giai đoạn thứ hai của quá trình loại bỏ mô. Quá trình được lặp lại cho đến khi không có thêm bằng chứng về bệnh ác tính.
Kỹ thuật Mohs đảm bảo rằng 100% bờ tổn thương được kiểm tra mô học và chỉ loại bỏ mô ác tính – với phần bờ tối thiểu của mô bình thường được loại bỏ. Điều này trái ngược với việc kiểm tra bờ dưới 1% so với phương pháp phẫu thuật cắt bỏ truyền thống. Khi u ác tính đã được loại bỏ hoàn toàn, phần da khiếm khuyết sẵn sàng để được tái tạo ngay lập tức. Phần lớn các bác sĩ phẫu thuật Mohs sửa chữa khiếm khuyết ngay lập tức, mặc dù sự hợp tác giữa bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ, bác sĩ phẫu thuật tạo hình khuôn mặt và bác sĩ phẫu thuật khối u không phải là hiếm.
Ý kiến của các tác giả rằng kỹ thuật này chỉ nên được thực hiện bởi những bác sĩ được đào tạo chuyên môn, những người đã thực hiện thêm 1–2 năm đào tạo để có được kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực ung thư da, giải thích mô bệnh học của các phần đông lạnh và tái tạo khiếm khuyết mô mềm (Hình 3.41–3.52).
Hình 3.41: Vị trí sinh thiết của BCC bị loét nguyên phát ở má phải
Hình 3.42: Cạnh của tổn thương được phác họa cùng với rìa 1–2 mm của vùng da bình thường
Hình 3.43: Cạnh của khiếm khuyết được tạo ra với các vết rạch để giúp duy trì định hướng khi cắt bỏ
Hình 3.44: (a – c) Toàn bộ phần ngoại vi được rạch
Hình 3.45 (a – c) Mẫu bệnh phẩm được cắt bỏ hoàn toàn và được lưu trữ cẩn thận
Hình 3.46: Mẫu bệnh phẩm được chuyển trực tiếp từ bệnh nhân lên thẻ minh họa để duy trì việc xác định. Mô sau đó được chia dọc theo các đường rạch điểm ban đầu; trong trường hợp này, mẫu vật đã được cắt lọc. Sau đó, mô được đổ mực và một bản đồ mã màu tương ứng được vẽ
Hình 3.47: Quá trình phân tách đông lạnh được thực hiện và các lam kính được tạo ra. Mỗi phần bao gồm toàn bộ chiều sâu và rìa ngoại vi của khối mô mà từ đó nó được cắt ra. Bác sĩ phẫu thuật Mohs tiến hành kiểm tra mô học cẩn thận và các khu vực dương tính được đánh dấu trên bản đồ mô. Trong trường hợp này, phần lớn rìa ngoại vi của phần A1 dương tính với bệnh ác tính. Điều này được đánh dấu bằng bút chì đỏ trên bản đồ Mohs. Các cạnh ngoại vi còn lại và toàn bộ cơ sở của khiếm khuyết đã sạch mô ác tính tại thời điểm này
Hình 3.48: Đối với các mục đích minh họa, các vết rạch chấm điểm ban đầu, cũng như khu vực dương tính, được phác họa trên da của bệnh nhân bằng bút đánh dấu phẫu thuật
Hình 3.49: Ở đây, người ta có thể đánh giá rằng vùng dương tính được đánh dấu trên bệnh nhân tương ứng với vùng được ghi nhận trên đánh giá bằng kính hiển vi
Hình 3.50 (a, b) Giai đoạn thứ hai của phẫu thuật Mohs được thực hiện, chỉ loại bỏ khu vực được ghi nhận là có khối u còn sót lại
Hình 3.51: Như với giai đoạn đầu tiên, lớp mô thứ hai này được viết bằng mực và lập bản đồ
Hình 3.52: Lớp thứ hai được ghi nhận là không có bệnh ác tính. Các khiếm khuyết sau phẫu thuật không có khối u sẵn sàng để tái tạo
Xạ trị
Xạ trị có thể khá hiệu quả trong điều trị ung thư da không phải melanoma, với tỷ lệ chữa khỏi trên 90% ở những bệnh nhân và khối u được lựa chọn đúng cách (Voss và Kim-Sing 1998). Bởi vì không có thực hiện kiểm tra bờ và tỷ lệ chữa khỏi tương đối thấp hơn so với điều trị phẫu thuật, xạ trị thường được dành cho những bệnh nhân không thể hoặc không muốn điều trị phẫu thuật. Nó cũng được chỉ định để điều trị các khối u được coi là không thể phẫu thuật hoặc phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn sẽ dẫn đến biến dạng đáng kể hoặc cần nỗ lực tái tạo diện rộng.
Hình 3.53: Chẩn đoán: BCC-nodular Mô tả lâm sàng: Sẩn màu hồng, giống quả lê, giãn mạch, kiểu vòm trên rãnh mũi má bên phải |
Hình 3.55: Chẩn đoán: BCC Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, bề mặt bị bào mòn, giãn mạch trên đầu mũi |
Hình 3.54 Chẩn đoán: BCC infiltrative Mô tả lâm sàng: Mảng xơ cứng màu hồng, hình dạng không xác định rõ với sự co lại của vành mũi bên phải |
Hình 3.56 Chẩn đoán: BCC Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, lõm trên vành mũi bên phải |
Hình 3.57
Chẩn đoán: BCC
Mô tả lâm sàng: mảng màu hồng, trên trán trái
Hình 3.58
Chẩn đoán: BCC
Mô tả lâm sàng: Sẩn màu hồng, giống quả lê trên trán phải
Hình 3.59
Chẩn đoán: BCC-micronodular
Mô tả lâm sàng: mảng lõm, xơ cứng, hình dạng không xác định rõ, ở trán trên trái
Hình 3.60
Chẩn đoán: BCC
Mô tả lâm sàng: mảng màu hồng, bề mặt bị bào mòn, giống quả lê trên da đầu
Hình 3.61
Chẩn đoán: BCC-morpheaform
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, bề mặt bị bào mòn, hình dạng không xác định rõ, vùng da xung quanh xơ cứng, giảm sắc tố ở má trái
Hình 3.62
Chẩn đoán: BCC
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, loét, giãn mạch có viền cuộn ở má giữa bên phải
Hình 3.63
Chẩn đoán: BCC
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, bề mặt bị bào mòn, hình dạng không xác định rõ, trên má giữa bên trái
Hình 3.64
Chẩn đoán: BCC
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, giống quả lê, có viền cuộn ở môi trên bên phải
Hình 3.65
Chẩn đoán: BCC infiltrative
Mô tả lâm sàng: Mảng xơ cứng, giống quả lê, hình dạng không xác định rõ, trên môi trên bên trái và môi
Hình 3.66
Chẩn đoán: BCC- morpheaform
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, hình dạng không xác định rõ, hơi giảm sắc tố ở môi trên bên phải
Hình 3.67
Chẩn đoán: BCC-pigmented
Mô tả lâm sàng: Mảng tăng sắc tố, giống quả lê, bề mặt bị bào mòn, ở vành tai sau bên trái
Hình 3.68
Chẩn đoán: BCC
Mô tả lâm sàng: Mảng tuyến tính, hình dạng không xác định rõ, màu hồng, giống quả lê, giãn mạch ở cổ
Hình 3.69
Chẩn đoán: BCC-nodular
Mô tả lâm sàng: Sẩn giống quả lê, màu hồng, giãn mạch, ở mí mắt dưới bên phải
Hình 3.70
Chẩn đoán: BCC-sclerotic
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, giống quả lê, dạng telangiectatic ở mi dưới bên trái kèm theo rụng lông mi (madarosis)
Hình 3.71
Chẩn đoán: BCC-nodular
Mô tả lâm sàng: Sẩn màu hồng, giống quả lê
Hình 3.72
Chẩn đoán: BCC
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, hình dạng không xác định rõ, giống quả lê, có viền cuộn trên ngực
Hình 3.73
Chẩn đoán: BCC
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, có vảy, bề mặt bị bào mòn với lớp vỏ bên trên ở cẳng chân
Hình 3.74
Chẩn đoán: BCC-pigmented
Mô tả lâm sàng: Sẩn màu nâu, giống quả lê, có viền màu hồng ở chi trên
Hình 3.75
Chẩn đoán: BCC-infiltrated, chronic (>20 years)
Mô tả lâm sàng: Loét sâu mũi phải, má giữa và mi dưới
Hình 3.76 Chẩn đoán: SCC Mô tả lâm sàng: Nốt sần nổi rõ ở thái dương trái |
Hình 3.77 Chẩn đoán: Amelonotic melanoma-invasive Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, giống quả lê với sắc tố hơi nâu sẫm trên thân mình |
Hình 3.78 Chẩn đoán: Amelonotic melanoma- superficial Mô tả lâm sàng: mảng ban đỏ, gồ nhẹ với sắc tố ngoại vi trên vành mũi trái |
Hình 3.80 Chẩn đoán: Dermato brosarcoma protuberans (DFSP) Mô tả lâm sàng: Nốt lồi, cứng, hình vòm, màu tím ở vai |
Hình 3.79 Chẩn đoán: Atypical broxanthoma (AFX) Mô tả lâm sàng: Nốt màu hồng, có vảy, hình vòm dưới tai phải |
Hình 3.81 Chẩn đoán: Merkel cell carcinoma (MCC) Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, giống quả lê, giãn mạch ở má giữa bên trái |
Hình 3.82
Chẩn đoán: Merkel cell carcinoma (MCC)
Mô tả lâm sàng: Nốt màu hồng, trên cẳng tay phải
Hình 3.83
Chẩn đoán: Cutaneous lymphoma
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, nhiều tiểu thuỳ, giống quả lê ở giữa trán
Hình 3.84
Chẩn đoán: Molluscum contagiosum
Mô tả lâm sàng: Sẩn màu hồng, hình vòm
Hình 3.85 Chẩn đoán: Sebaceous hyperplasia Mô tả lâm sàng: Sẩn màu hơi vàng, giãn mạch, lõm trung tâm, ở đầu mũi bên phải |
Hình 3.88 Chẩn đoán: Neuro broma Mô tả lâm sàng: Các nốt sẩn mềm, màu hồng trên thân mình |
Hình 3.86 Chẩn đoán: Fibrous papule Mô tả lâm sàng: Sẩn màu hồng, mờ đục trên mũi bên phải |
Hình 3.89 Chẩn đoán: Neuro broma Mô tả lâm sàng: Sẩn mềm, có thể nén được, màu hồng |
Hình 3.87 Chẩn đoán: Dermato broma Mô tả lâm sàng: Sẩn chắc, màu hồng với sắc tố ngoại vi |
Hình 3.90 Chẩn đoán: Lipoma Mô tả lâm sàng: Nốt dưới da có màu da, di động ở mũi phải |
Hình 3.91
Chẩn đoán: Keloid
Mô tả lâm sàng: Mảng chắc, màu hồng
Hình 3.92
Chẩn đoán: Cutaneous lupus
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, có vảy, ở mũi trái
Hình 3.93
Chẩn đoán: Cutaneous lupus
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, bề mặt bị bào mòn, có vảy trên tai bên trái
Hình 3.94
Chẩn đoán: Factitial ulcer
Mô tả lâm sàng: Vết loét có ranh giới rõ ràng với các vết sẹo đã lành liền kề
Hình 3.95
Chẩn đoán: Angio broma
Mô tả lâm sàng: Sẩn màu hồng, trắng đục, hình vòm trên trụ mũi trái
Hình 3.96
Chẩn đoán: B cell lymphoma
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng ở vai sau bên trái
Hình 3.97
Chẩn đoán: Lymphomatoid papulosis
Mô tả lâm sàng: Mảng loét, có vảy
Hình 3.98
Chẩn đoán: Nevus sebaceous
Mô tả lâm sàng: Sẩn mềm, màu vàng hồng ở má trái
Hình 3.99
Chẩn đoán: Xanthoma
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng trên trán với viền vàng khi kiểm tra kỹ
Hình 3.100
Chẩn đoán: Chondrodermatitis nodularis chronica helicis (CNCH)
Mô tả lâm sàng: Sẩn loét, màu hồng, mềm, nằm trên vành tai
Hình ảnh lâm sàng của scc (hình 3.101–3.125)
Hình 3.101
Chẩn đoán: SCC – Keratoacanthoma type
Mô tả lâm sàng: Nốt dày sừng ở tay phải
Hình 3.102
Chẩn đoán: SCC- Keratoacanthoma type
Mô tả lâm sàng: Nốt dày sừng, hình miệng núi lửa ở tay phải
Hình 3.103 Chẩn đoán: SCC-Keratoacanthoma type Mô tả lâm sàng: Sẩn dày sừng ở vách mũi bên phải |
Hình 3.106 Chẩn đoán: SCC Mô tả lâm sàng: Mảng dày sừng có vảy trên da |
Hình 3.104 Chẩn đoán: SCC in situ Mô tả lâm sàng: Mảng màu nâu hồng có vảy trên ngón tay |
Hình 3.105 Chẩn đoán: SCC Mô tả lâm sàng: Mảng có hình dạng không xác định, bề mặt bị bào mòn trên ngón tay |
Hình 3.107 Chẩn đoán: SCC Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, bề mặt bị bào mòn, có vảy trên da |
Hình 3.108 Chẩn đoán: SCC Mô tả lâm sàng: Sẩn màu hồng, dày sừng trên trán |
Hình 3.109 Chẩn đoán: SCC Mô tả lâm sàng: mảng màu hồng, bề mặt bị bào mòn trên má phải |
Hình 3.110 Chẩn đoán: SCC Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng có vảy trên da đầu |
Hình 3.111
Chẩn đoán: SCC
Mô tả lâm sàng: Mảng loét hình vòm trên cánh tay
Hình 3.112
Chẩn đoán: SCC in situ
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng có vảy ở má trái
Hình 3.113
Chẩn đoán: SCC
Mô tả lâm sàng: Nốt dày sừng, có vỏ cứng trên da đầu
Hình 3.114
Chẩn đoán: SCC
Mô tả lâm sàng: Nốt loét, dày sừng trên da đầu
Hình 3.115
Chẩn đoán: SCC
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng có vảy trên lông mày bên phải
Hình 3.116
Chẩn đoán: SCC
Mô tả lâm sàng: Mảng cứng có vảy trên cánh tay
Hình 3.117
Chẩn đoán: SCC
Mô tả lâm sàng: Mảng dày sừng, có vảy, bên dưới tai trái
Hình 3.118
Chẩn đoán: SCC
Mô tả lâm sàng: Mảng hình vòm trên có vảy thân mình
Hình 3.119
Chẩn đoán: SCC
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng có vảy ở bàn chân
Hình 3.120
Chẩn đoán: SCC x2
Mô tả lâm sàng: Hai sẩn cứng trên trán trái
Hình 3.121
Chẩn đoán: SCC
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, bề mặt bị bào mòn bên dưới tai phải
Hình 3.122
Chẩn đoán: SCC
Mô tả lâm sàng: Sẩn với bề mặt bị bào mòn ở thành mũi bên trái
Hình 3.123 Chẩn đoán: SCC Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng với bề mặt bị bào mòn trên mũi |
Hình 3.124 Chẩn đoán: SCC Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng với bề mặt bị bào mòn trên vành tai bên trái |
Hình 3.125
Chẩn đoán: SCC-Keratoacanthoma type
Mô tả lâm sàng: Nốt dày sừng, hình miệng núi lửa với các mảnh vụn trung tâm trên tai phải
Hình ảnh lâm sàng của bệnh lý giống scc (hình 3.126–3.139)
Hình 3.126
Chẩn đoán: BCC
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng có vảy trên nếp gấp sau tai phải
Hình 3.127
Chẩn đoán: Chondrodermatitis nodularis helicis (CNH)
Mô tả lâm sàng: Sẩn màu hồng mềm trên vành tai
Hình 3.128
Chẩn đoán: CNH
Mô tả lâm sàng: Sẩn màu hồng mềm mại, bề mặt bị bào mòn, dọc theo vành tai
Hình 3.129
Chẩn đoán: Cutaneous horn
Mô tả lâm sàng: mảng màu hồng dày sừng
Hình 3.130
Chẩn đoán: Factitial ulcers
Mô tả lâm sàng: Nhiều vết loét nông ở mặt
Hình 3.131
Chẩn đoán: Lichen planus- hypertrophic
Mô tả lâm sàng: Nhiều sẩn có vảy, màu hồng
Hình 3.132
Chẩn đoán: Insect bite
Mô tả lâm sàng: Sẩn viêm, đóng vảy, màu hồng
Hình 3.133
Chẩn đoán: Kaposi Sarcoma
Mô tả lâm sàng: Mảng màu tím, có vảy
Hình 3.134
Chẩn đoán: Cutaneous lupus
Mô tả lâm sàng: mảng có vảy trên mũi và chân mày bên
Hình 3.135
Chẩn đoán: Merkel cell carcinoma
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, có vảy trên má
Hình 3.136
Chẩn đoán: Mycosis fungoides
Mô tả lâm sàng: Các mảng màu hồng, loét, có viền tím
Hình 3.137
Chẩn đoán: Molluscum contagiosum
Mô tả lâm sàng: Sẩn nhỏ, màu hồng
Hình 3.138
Chẩn đoán: Porokeratosis
Mô tả lâm sàng: Mảng màu hồng, có vảy, có vảy sừng ngoại vi
Hình 3.139
Chẩn đoán: Prurigo nodeularis
Mô tả lâm sàng: Các mảng màu hồng có vảy, lỏng lẻo
Tài liệu tham khảo
Brodland DG, Zitelli JA (1992) Surgical margins for excision of pri- mary cutaneous squamous cell carcinoma. J Am Acad Dermatol 27(2 Pt 1):241–248
Christenson LJ, Borrowman TA, Vachon CM et al (2005) Incidence of basal cell and squamous cell carcinomas in a population younger than 40 years. JAMA 294:681– 690
Gollnick H, Barona CG, Frank RG et al (2008) Recurrence rate of super cial basal cell carcinoma following treatment with imiqui- mod 5% cream: conclusion of a 5- year long-term follow-up study in Europe. Eur J Dermatol 18(6):677–682
Gross K, Kircik L, Kricorian G (2007) 5% 5-Fluorouracil cream for the treatment of small super cial basal cell carcinoma: ef cacy, toler- ability, cosmetic outcome, and patient satisfaction. Dermatol Surg 33(4):433–439
Marks R, Owens M, Walters SA et al (2004) Ef cacy and safety of 5% imiquimod cream in treating patients with multiple super cial basal cell carcinomas. Arch Dermatol 140(10):1284–1285
Peris K, Campione E, Micantonio T et al (2005) Imiquimod treatment of super cial and nodular basal cell carcinoma: 12-week open-label trial. Dermatol Surg 31(3):318–323
Rodriguez-Vigil T, Vázquez-López F, Perez-Oliva N (2007) Recurrence rates of primary basal cell carcinoma in facial risk areas treated with curettage and electrodesiccation. J Am Acad Dermatol 56(1):91–95
Rowe DE, Carroll RJ, Day CL Jr (1989) Long-term recurrence rates in previously untreated (primary) basal cell carcinoma: implications for patient follow-up. J Dermatol Surg Oncol 15(3):315–328
Rowe DE, Carroll RJ, Day CL Jr (1992) Prognostic factors for local recurrence, metastasis, and survival rates in squamous cell carci- noma of the skin, ear, and lip. Implications for treatment modality selection. J Am Acad Dermatol 26(6):976–990
Tierney E, Barker A, Ahdout J et al (2009) Photodynamic therapy for the treatment of cutaneous neoplasia, in ammatory disorders, and photoaging. Dermatol Surg 35(5):725–746
Voss N, Kim-Sing C (1998) Radiotherapy in the treatment of dermato- logic malignancies. Dermatol Clin 16(2):313–320
Wolf DJ, Zitelli JA (1987) Surgical margins for basal cell carcinoma. Arch Dermatol 123(3):340–344