Nội dung

Hoạt động và nhân cách

Hoạt động.

Khái niệm hoạt động:

Khái niệm của Triết học: hoạt động là quan hệ biện chứng của chủ thể với khách thể bao gồm:

Quá trình khách thể hoá: chủ thể chuyển những đặc điểm của mình vào đối tượng.

Quá trình chủ thể hoá khách thể: chủ thể tiếp thu những đặc điểm của khách  thể vào năng lực của bản thân.

Khái niệm của  Sinh  lí  học:  hoạt  động là sự tiêu hao năng  lượng thần  kinh và cơ bắp của con người khi tác động vào hiện thực khách quan.

Tâm lí học: hoạt động là phương thức tồn tại  của con người  bằng  cách tác động vào đối tượng, tạo ra sản phẩm nhằm thoả mãn những nhu cầu (trực tiếp/gián tiếp) của bản thân và xã hội.

Hoạt động là sự thể hiện mối quan hệ của con người với môi trường xung quanh.

Hoạt đông luôn nhằm thỏa mãn nhu cầu nhất định.

Các loại hoạt động:

Về phương diện cá thể, có thể chia thành các loại hoạt động:

Vui  chơi.

Học tập.

Lao động.

Về phương diện sản phẩm, có thể chia thành:

Hoạt động thực tiễn: tạo ra sản phẩm vật chất; gọi là hoạt động bên ngoài.

Hoạt động lí luận: tạo ra sản phẩm tinh thần; còn gọi là hoạt động bên trong.

Dạng hoạt động thứ nhất tác động vào sự vật nhằm biến đổi sự vật.

Dạng hoạt động thứ hai không làm biến đổi vật thể tại vật thể.

Cách chia khác:

Hoạt động biến đổi: dạng điển hình là lao  động. Tuy  nhiên hoạt  động biến  đổi còn bao hàm cả biến đổi xã hội:

Hoạt động xã hội – chính trị.

Hoạt động quản lí (xã hội, kinh tế, khoa học v.v.).

Hoạt động biến đổi con người.

Hoạt động nhận thức: là một dạng hoạt  động tinh thần,  không  làm  biến đổi các vật thể thực, quan hệ thực. Nó chỉ phản ánh các sự vật, quan hệ bằng các biểu tượng, khái niệm, hình ảnh… Hoạt động  nhận  thức  có cả ở mức độ kinh nghiệm  thực tiễn, có cả ở mức độ lí luận khoa học.

Hoạt động định hướng giá trị: là một dạng hoạt động tinh thần, xác  định ý nghĩa của thực tại đối với bản thân.

Cấu trúc của hoạt động:

Theo các  nhà tâm lí  học  Mác  Xit, có thể  phân tích hoạt động thành các thành  tố cấu thành.

Hình 6.1: Cấu trúc của hoạt động.

Mỗi hoạt động của con người được thúc đẩy  bởi  một  hay  một  số  động cơ. Đơn vị của hoạt động là hành động. Hành động nhằm đạt được mục đích nhất định. Trong một hoàn cảnh cụ thể, hành động được  thực  hiện bởi một  loạt  các  thao tác. Kết quả cuối cùng là sản phẩm của hoạt động.

Ví dụ: hoạt động học tập của sinh viên được thúc đẩy bởi động cơ nghề nghiệp  (và có thể có cả các động cơ cá nhân khác).  Hoạt  động  học  tập được  chia nhỏ thành các hành động nhằm đạt được từng mục tiêu cụ thể trên đường đi  tới  đích cuối cùng. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng cấu trúc của hoạt động là rất linh hoạt.  Việc phân biệt, ví dụ động cơ với mục đích cũng chỉ mang tính tương đối.

Các loại nhu cầu của con người:

Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu, khách quan, là sự cần thiết về một cái gì đó cần được thỏa mãn. Chính mọi hoạt  động của con người  nhằm  thỏa mãn  nhu  cầu nào đó nên các nhu cầu của con người, được  tập  hợp  lại  trong một  hệ  thống nhất  định, đóng vai trò là động cơ thúc đẩy mọi hoạt động.

Nhu cầu của con người rất đa dạng. Tuy nhiên cũng có thể chia thành 2 nhóm chính là nhu cầu (mang tính)  sinh học  và  nhu  cầu (mang tính)  xã hội. Hoặc  cũng có thể chia thành nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.

Nhu cầu sinh học/sinh lí: là những nhu cầu cần để duy trì sự tồn tại của cơ thể người. Ví dụ: nhu cầu về ăn, uống, nhu cầu tình dục.

Nhu cầu vật chất: là những đòi hỏi về vật chất.

Nhu cầu tinh thần: rất đa dạng và phong phú. Đó là những nhu cầu về đạo đức, thẩm mĩ, nhu cầu về nhận thức và giao tiếp, nhu cầu lao  động cũng như  các  hoạt động xã hội.

Maslow, một nhà tâm lí học Mĩ xếp nhu cầu của con người thành 5 bậc:

Hình 6.2: Sơ đồ thứ bậc nhu cầu của Maslow.

Một điều không kém phần quan trọng là  khi  xem  xét  hành  động/hành vi  của con người, cần phải xét xem những hành động/hoạt  động đó  do  động cơ gì. Nói cách khác là cần quan tâm đến lĩnh vực động cơ – nhu cầu của mỗi con người.

Kĩ năng, kĩ xảo và thói quen:

Hành động tự động hoá: là những hành động vốn lúc  đầu có sự kiểm soát  mạnh mẽ của ý thức sau do lặp đi lặp lại  nhiều lần,  trở  thành  tự  động.  Vai  trò kiểm soát của ý thức đối với hành động tự động hoá chỉ ở mức  độ tối thiểu, công việc này chủ yếu dành cho vô thức. Trong quá trình thực  hiện,  nếu  có  gì  bất thường, ý thức lại dành quyền kiểm soát, điều hành hành động.

năng xảo: kĩ năng là  khả  năng  vận  dụng  những  tri  thức  vào  thực tiễn. Khi nào kĩ năng  được  luyện  tập thường xuyên trở thành tự động hoá, khi  đó trở thành kĩ xảo.

Thói quen: là những hành động  đã  được  tự động hoá và  trở thành  nhu  cầu của con người. Ví dụ: thói quen rửa tay trước khi ăn.

Nhân cách.

Một số khái niệm:

Con người: thực thể tự nhiên (động vật có vú)  và là thực thể xã hội (chủ thể  của các hoạt động cá nhân và xã hội). Con người là một sáng tạo mới của lịch sử.

Cá nhân: đại diện cho loài người,  bất  kì  một  con người  nào  tồn tại  trong mỗi cộng đồng.

Cá tính: mỗi cá  nhân  khác  nhau  về  thể  tạng,  kiểu  loại  thần  kinh cũng như về tính cách, nhu cầu, tình cảm… Những đặc điểm riêng của cá nhân được bộc lộ trong các mối quan  hệ,  trong cuộc  sống theo  kiểu riêng biệt,  không trùng lặp với  ai được gọi là cá tính. Cá tính nói lên bản sắc cá nhân của mỗi con người.

+ Nhân cách: là tổ hợp những đặc  điểm,  thuộc  tính tâm lí  của mỗi  cá nhân, biểu hiện bản sắc, giá trị xã hội của con người đó.

Theo tiếng Việt: nhân – người, cách – cách thức, cách lối, cốt cách. Nhân cách: đó là cách thức, cách lối làm người.

Nhân cách: cấu tạo tâm lí mới, có khả năng tự điều chỉnh, có cấu trúc phức

tạp.

Cấu trúc của nhân cách:

Cấu trúc theo kiểu, loại:

Phân kiểu dựa theo khí chất ưu thế:

Kiểu nhân cách nóng nảy: đây là nhân cách của  người  có  kiểu  thần  kinh mạnh, không cân bằng, hưng phấn mạnh  hơn  ức  chế.  Họ  là  những  người  nhanh thay đổi khí sắc, yêu, ghét rõ ràng, bộc trực, thẳng thắn, dễ  nổi  nóng, chú ý đến những cái lớn. Họ là người dễ có sáng kiến song kém bền bỉ trong công việc.

Kiểu nhân cách bình thản: kiểu thần  kinh  của  nhân  cách dạng  này là mạnh, cân bằng, không linh hoạt. Các mối quan hệ của họ không rộng, hình thành chậm nhưng bền. Trong công việc họ chậm  nhưng  chắc,  có  khả  năng  thực  hiện  công việc một cách bền bỉ.

Kiểu nhân cách hăng hái, sôi nổi: đây là kiểu nhân cách tương ứng  với  kiểu thần kinh mạnh, cân bằng, linh  hoạt.  Người  có  kiểu nhân  cách này là người  hăng hái trong công việc, dễ thích nghi với hoàn cảnh mới, các mối quan hệ rộng. Tuy  nhiên tình cảm của họ thường không sâu bền,  dễ  bắt  tay  vào  công việc  song cũng dễ rút lui.

Kiểu nhân cách ưu tư: cơ sở thần kinh của kiểu nhân cách này  là kiểu thần  kinh yếu, ức chế mạnh hơn hưng phấn. Họ là  người  nhạy  cảm,  tinh  tế,  dễ  xúc động, các quyết định thường dựa trên tình cảm.  Quan  hệ  hẹp nhưng  sâu và  bền.  Tuy nhiên họ thường khó thích nghi với cái mới, nhút nhát và kém quyết đoán.

Phân kiểu dựa theo mẫu hành vi ưu thế:

Hiện nay trong nhiều tài liệu tâm lí lâm sàng đề cập đến cách phân kiểu nhân cách dựa vào mẫu hành vi nổi bật của Friedman A. và Roseman:

Nhân cách týp A có 3 đặc điểm nổi bật là:

Nhanh chóng trong hành động.

Quan tâm đến nghề nghiệp rõ rệt.

Có tinh thần cạnh tranh.

Những người này thường có tỉ lệ mắc  bệnh động mạch vành  cao  hơn (dao động từ 30% – 70% tùy theo từng nghiên cứu) so với tỉ lệ chung.

Nhân cách týp B có những đặc điểm nổi bật:

Có thái độ rút lui trong hành động.

Thường hay thay đổi ý thích.

Kiểu A: người hăng hái, có tính ganh đua rất cao; kiểu B: ngược lại.

 Kiểu nhân cách hướng nội, hướng ngoại:

Người hướng ngoại điển hình: là người cởi  mở,  giao  tiếp  rộng,  có  nhiều bạn, người quen. Họ hành  động dưới  ảnh  hưởng  chốc  lát, có  tính chất xung động, vô tâm, lạc quan, thích vận động và hành động. Tình  cảm  và  cảm  xúc  của  họ   không được kiểm soát chặt chẽ.

Người hướng  nội  điển hình:  là  người  điềm tĩnh, rụt rè, nội quan, hay giữ kẽ, ít tiếp xúc, giao tiếp với mọi người, trừ những bạn bè thân. Họ có khuynh hướng  muốn hoạch định kế hoạch hành động. Không thích sự kích động, làm  công việc hàng ngày với tinh thần nghiêm túc, thích trật  tự,  ngăn  nắp.  Kiểm  soát  chặt chẽ cảm xúc tình cảm của mình, không dễ dàng buông thả.

Cấu trúc ba khối: cái nó – cái tôi, siêu tôi:

Nhân cách, theo Freud, gồm 3  bộ  phận,  3  “con  người” bé  nhỏ:  Cái  Nó  (Id); cái Tôi “Ego” và cái Siêu tôi (Super Ego).

Cái Nó: đây là con người của  bản  năng,  đòi hỏi  thoả mãn mọi  nhu cầu và  phải thoả mãn ngay lập tức.  Ví  dụ,  khi  đói, con người  bản năng này thúc  đẩy cơ  thể phải có những hành  động  để  thoả  mãn cái  đói. Trong thành phần của Cái  nó  chỉ có vô thức.

Cái Tôi – con người của hiện thực: không thể thoả mãn nhu cầu bằng mọi giá mà cần phải tính đến hoàn cảnh hiện thực. Phần nhân cách Cái  Tôi  thực  hiện các hoạt động chống lại Cái  Nó  bằng  cách  giành  quyền  làm  chủ  các  ham  muốn, quyết định xem những đòi hỏi ấy có thể  được  thoả mãn hay không? phải trì hoãn  đến thời điểm khác hay phải loại bỏ hoàn  toàn?  Freud  đã  ví  Cái  Nó  như  con ngựa, thích chạy hướng nào tùy thích. Tuy nhiên cần phải có người kiểm soát con ngựa đó. Cái Tôi đóng vai trò kị sĩ để điều khiển con ngựa Cái Nó.

Trong thành phần của mình, cái Tôi chứa chủ yếu là ý thức. Vô thức cũng có nhưng chiếm tỉ lệ nhỏ.

Siêu tôi – con người xã hội:  con người  sống  trong xã  hội và  cần phải  thể hiện mình theo  những  yêu cầu về  đạo  đức, pháp  luật,  những  yêu cầu mà xã hội  đòi hỏi. Cũng là đói, cũng là có thức ăn song người ta đã dạy rằng có những “miếng ăn là miếng nhục”. Trong  một  chừng  mực  nào  đó, Siêu tôi  còn được  gọi là con người lí tưởng bởi nó là bộ phận luôn thúc đẩy con người tới hoàn thiện.

Cấu trúc yếu tố:

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: trong mỗi nhân cách có các yếu tố khác nhau, cấu thành khác nhau. Tuy nhiên số lượng yếu tố  được  đưa  ra  lại  không  giống nhau.

Nhân cách bao gồm 4  nhóm  thuộc  tính  chính. Mô  hình nay đang được  đề cập nhiều trong các giáo trình tâm lí học trong nước:

Xu hướng: đó là hệ thống những động cơ,  mục  đích thúc  đẩy, quy định tính lựa chọn thái độ và tính tích cực của con người. Xu hướng bao gồm một hệ thống  các nhu cầu, hứng thú,  niềm  tin,  thế  giới  quan,  lí  tưởng tác  động qua lại và  liên hệ mật thiết với nhau.

Tính cách: hệ thống thái độ, hành vi của con người đối với mọi người xung quanh, đối với xã hội và đối với bản thân.

Khí chất: nói về  động thái  (cường độ, nhịp  độ..)  của các  hiện tượng tâm  lí cá nhân.

Năng lực: hệ thống các khả năng đảm bảo cho kết quả của các hoạt động.

Nhân cách  bao  gồm 2  yếu tố  chính:  yếu tố  hướng nội, hướng ngoại  và  yếu tố tính ổn định thần kinh. Hai yếu tố  này  kết  hợp  với  nhau  tạo  nên  kiểu  nhân cách. Mô hình 2 yếu tố này về cơ bản, tương thích với mô hình dựa theo khí chất.

Nhân cách bao gồm 16 yếu tố. Đây là mô hình do Cattell đề xuất trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn.

Mô hình 5  yếu  tố:  đây  là  mô  hình  đang được  ưa dùng hiện nay.  Năm yếu tố gồm:

Tính ổn định thần kinh:  lo  âu,  thù địch, trầm cảm, tự ý thức, xung động, tính dễ bị tổn thương.

Tính hướng ngoại: thân thiện, thích giao thiệp,  tính  quyết  đoán,  tích  cực hoạt động, tìm kiếm sự kích thích, cảm xúc tích cực.

Tính mở đối với  hiểu biết: trí tưởng tượng, óc thẩm mĩ, nhạy cảm, hành động,   ý tưởng, giá trị.

Tính dễ chịu: chân thành, thẳng thắn, vị tha, phục tùng, khiêm tốn, nhân hậu.

Tính ý thức: năng lực, trật tự, trách nhiệm, nỗ lực thành  đạt,  tự giác, thận trọng.

Cấu trúc hai mặt đức tài:

Đây là mô hình truyền thống ở trong nước, các nhà tâm lí học đã đúc kết lại:

 

Đức (Phẩm chất)

Tài (Năng lực)

Phẩm chất xã hội/đạo đức -chính trị

Thế giới quan, niềm tin, lí tưởng,  lập  trường, thái độ chính trị, thái độ lao động…

Năng lực xã hội hoá:  khả  năng  thích  ứng, cơ động, linh hoạt, mềm dẻo  trong  cuộc sống xã hội.

Phẩm chất cá nhân/đạo đức tư cách: các nết, thói, thú (ham muốn)

Năng lực chủ thể hoá: khả  năng  thể  hiện tính đọc đáo, đặc sắc, thể hiện cái riêng của cá nhân.

Phẩm chất ý chí: tính kỉ luật, tính tự chủ, tính mục đích, tính phê phán…

Năng lực hành động: khả năng  hành  động có mục đích, chủ động, tích cực.

 Cung cách ứng xử: tác phong, lễ tiết…

Năng lực giao tiếp: khả năng thiết lập và duy trì các mối quan hệ…

(Nguồn: Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thuỷ, 1988).

Các con đường hình thành nhân cách.

Nhân cách con người không được sinh ra mà  là  được  hình thành. Trong quá trình hình thành nhân cách thì giáo dục, hoạt động, giao tiếp và tập thể  có vai  trò quyết định và tạo ra những con đường cơ bản nhất.

Giáo dục:

Giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển của nhân cách.

Giáo dục: toàn bộ các tác động sư phạm trực tiếp  và  gián tiếp, trong nhà trường, gia đình và ngoài xã hội.  Theo  nghĩa  hẹp,  giáo  dục  thường được  hiểu là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về mặt tư tưởng, đạo đức, hành vi.

Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách.

Giáo dục có thể đem lại những cái mà yếu tố bẩm sinh – di truyền hoặc môi trường tự nhiên không thể đem lại được: học tập, học nghề…

Giáo dục bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật.

Giáo dục có thể uốn nắn, điều chỉnh những phẩm chất tâm lí xấu.

Giáo dục có thể đi trước hiện thực.

Hoạt động:

Tâm lí được hình thành và thể hiện trong hoạt  động:  thông qua  hoạt  động và bằng hoạt động, chủ thể thực hiện quá trình kép  –  nhập  tâm  và  xuất  tâm.  Bằng  hoạt động và thông qua hoạt động con người lĩnh hội cũng như truyền đạt kinh nghiệm xã hội – lịch sử.

Giao tiếp:

Giao tiếp là điều kiện để con người thực hiện các hoạt động cùng nhau, nhằm lĩnh hội kinh nghiệm xã hội – lịch sử.

Giao tiếp là con đường để loài người thực hiện di truyền xã hội. Nhờ có giao  tiếp, con người có thể nhận thức được thế giới, nhận thức được chính bản thân.

Tập thể:

Mọi sự giao tiếp của con người đều diễn ra trong  nhóm.  Các  tổ  chức, hoạt động của nhóm đều là điều kiện cho sự hình thành nhân cách của con người.