Vì sao quốc hội ban hành ban hành luật khám bệnh chữa bệnh
Thể chế hóa quan điểm của đảng và nhà nước về khám bệnh, chữa bệnh
Đánh giá đúng đắn vai trò quan trọng của sức khoẻ con người trong quá trình đổi mới, đưa đất nước tiến lên công nghiệp hoá và hiện đại hoá, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra mục tiêu tổng quát để phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân ( bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân ) là “Giảm tỷ lệ mắc bệnh, tật và tử vong, nâng cao sức khoẻ, tăng tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nòi, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng nguồn nhân lực, hình thành hệ thống chăm sóc sức khỏe đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở và thói quen giữ gìn sức khỏe của nhân dân, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1.
Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi phải thực hiện nhất quán một trong những quan điểm cơ bản là “Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, nhằm tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ với chất lượng ngày càng cao, phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước”2.
Như vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đều khẳng định nhất quán mục tiêu từng bước nâng cao chất lượng công tác khám bệnh chữa bệnh nhằm đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân và quan điểm này cần phải thể chế hóa bằng pháp luật, trong đó có Luật Khám bệnh chữa bệnh.
Nghị quyết số 46 – NQ/TW ngày 25/02/2005 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
Nghị quyết số 46 – NQ/TW ngày 25/02/2005 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
1 Báo cáo tại Hội nghị tổng kết công tác y tế năm 2008 của Bộ Y tế ngày 28/12/2008.
Đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác khám bệnh chữa bệnh hiện nay
Trong những năm qua, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, trong đó có lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Hoạt động y tế dự phòng được đẩy mạnh hơn. Một số dịch bệnh mới như viêm phổi cấp (SARS), dịch cúm A (H5N1) ở người đã được ngăn chặn, khắc phục nhanh. Mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở đã được củng cố và phát triển; đã có 97,9 % xã trong cả nước có trạm y tế; 66,5 % trạm y tế có bác sỹ. Nhiều cơ sở khám bệnh chữa bệnh được đầu tư, nâng cấp, nhiều kỹ thuật y học cao được áp dụng và mở rộng đến tuyến tỉnh như hỗ trợ sinh sản, ghép thận, gan, phẫu thuật tim hở, nong mạch vành, phẫu thuật nội soi, chẩn đoán hình ảnh… đáp ứng nhu cầu khám bệnh chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân3. Chế độ khám bệnh chữa bệnh cho người nghèo, khám bệnh chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi đang được triển khai thực hiện. Đến nay, “Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 33,4% năm 2000 xuống 21,2% năm 2007; tỷ lệ chết của trẻ em dưới 1 tuổi còn 16%. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam từ 67,8 tuổi đã nâng lên 72,84 tuổi vào năm 2007”[1].
Bên cạnh các kết quả đạt được trên đây, công tác khám bệnh chữa
bệnh vẫn còn một số tồn tại sau :
Mô hình bệnh tật ở nước ta được phân loại theo 3 nhóm (nhiễm trùng, không nhiễm trùng và tai nạn, thương tích). Nhóm bệnh không nhiễm trùng chiếm tỷ trọng mắc bệnh cao nhất là 60,61 %, nhóm bệnh nhiễm trùng vẫn còn phổ biến và chiếm tỷ trọng mắc bệnh trên 27,0 %, nhóm bệnh do tai nạn thương tích chiếm tỷ trọng mắc bệnh là 11,95 %. Tình trạng ngộ độc thực phẩm còn cao, hằng năm có từ 1,3 – 1,5 triệu người ngộ độc; tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, đặc biệt là ô nhiễm do sử dụng hóa chất; tình hình sức khỏe công nhân và bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động vẫn còn cao[2] đòi hỏi việc cung cấp các dịch vụ khám bệnh chữa bệnh thuận lợi, đa dạng, hiệu quả và kịp thời.
Hiện nay, tính trên cả nước, trong khu vực Nhà nước có 13.439 cơ sở khám bệnh chữa bệnh, trong đó có 953 bệnh viện công với gần 202.941 giường bệnh[3], được đầu tư nhiều trang thiết bị hiện đại nhưng so với nhu cầu cung cấp dịch vụ y tế thì hầu hết cơ sở vật chất, nhà cửa, điện nước, thiết bị thông dụng của các bệnh viện vẫn chưa đạt tiêu chuẩn tối thiểu. Ở khu vực tư nhân, đến nay, cả nước đã có 121 bệnh viện tư nhân với trên tổng số 5.600 giường bệnh; hơn 30.000 phòng khám, dịch vụ y tế tư nhân. Đối với các cơ sở khám bệnh chữa bệnh công do chưa có quy định điều kiện cụ thể để cấp giấy phép hoạt động nên nhiều cơ sở khám bệnh chữa bệnh đã không đạt điều kiện, đặc biệt là cơ sở vật chất, xử lý chất thải y tế. Trong khi đó, các cơ sở khám bệnh chữa bệnh tư nhân muốn hoạt động được phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện mới được cấp phép. Do đó, cần thiết phải có cơ chế pháp lý về điều kiện cụ thể và cấp giấy phép hoạt động cho mọi cơ sở trên để bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế khám bệnh chữa bệnh cho người bệnh một cách hiệu quả, đồng đều.
Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế năm 2013, ở nước ta, đến nay có 310.980 cán bộ y tế làm việc trong khu vực nhà nước ( trong đó, 56.661 bác sỹ, 51.062 y sỹ, 2736 điều dưỡng viên đại học, 64.901 điều dưỡng viên trung học, 8.254 điều dưỡng viên sơ học, 23.569 nữ hộ sinh đại học và trung học, 1.429 nữ hộ sinh sơ học, 13.171 kỹ thuật viên y tế, 679 xét nghiệm viên và 269 lương y )[4], chưa kể người đang hành nghề trong khu vực tư nhân. Việc cấp chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện từ năm 1995 đối với người đứng đầu các cơ sở hành nghề y tư nhân ( việc cấp này thông qua việc xét hồ sơ thuần túy của đối tượng hành nghề ) nhưng đối với người trực tiếp hành nghề khám bệnh chữa bệnh thuộc khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân đều chưa được thực hiện nên chất lượng của đội ngũ này cũng chưa đồng đều do Việt Nam chưa có hệ thống đăng ký, kiểm tra, cấp chứng chỉ hành nghề và giám sát hoạt động cho người hành nghề khám bệnh chữa bệnh.
Đáp ứng với yêu cầu phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật về kbcb
Hiện nay, các chế định pháp luật về KBCB chủ yếu được quy định trong Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân ngày 30/6/1989 (Chương KBCB, chương KBCB bằng y học cổ truyền), Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân. Qua đánh giá, pháp luật về KBCB còn các bất cập sau:
Các quy định về KBCB trong Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân còn chung chung, mang tính nguyên tắc nên hiệu lực pháp luật không cao. Một số quy định đã được luật, pháp lệnh khác ban hành sau này điều chỉnh như bảo vệ sức khoẻ (BVSK) người cao tuổi đã được quy định tại Pháp lệnh Người cao tuổi ngày 28/4/2000; về BVSK thương binh, bệnh binh đã được quy định tại Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng ngày 10/9/2004; về BVSK người tàn tật đã được quy định tại Pháp lệnh người tàn tật ngày 30/7/1998; về thực hiện kế hoạch hóa gia đình đã được quy định trong Pháp lệnh Dân số ngày 22/01/2003; về BVSK trẻ em đã được quy định trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày 15/6/2004…. Do đó, chỉ còn các quy định về điều kiện hành nghề KBCB, các quy định chuyên môn kỹ thuật y tế trong Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân là chưa được cụ thể hóa.
Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân (Nội dung hành nghề dược tư nhân đã bị bãi bỏ bởi Luật Dược năm 2005 đã nhất thể hóa điều kiện hành nghề dược của Nhà nước với hành nghề dược tư nhân) nên Pháp lệnh này chỉ còn nội dung hành nghề y tư nhân, trong khi hành nghề KBCB của Nhà nước lại không quy định cụ thể. Do đó, Luật KBCB cũng phải nhất thể hóa điều kiện hành nghề KBCB của Nhà nước với hành nghề KBCB tư nhân, đồng thời bãi bỏ Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân sau khi Luật KBCB được ban hành và có hiệu lực.
Các quy định về KBCB trong Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân được ban hành từ năm 1989 khi đất nước ta mới chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế cơ chế thị trường nên chưa đề cập đến các thành phần kinh tế khác tham gia vào công tác KBCB, chưa đề cập đến vấn đề xã hội hóa và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ KBCB, cũng như chưa tạo tiền đề pháp lý cho việc cạnh tranh lành mạnh giữa khu vực KBCB của Nhà nước và tư nhân thông qua việc cấp chứng chỉ hành nghề KBCB cho mọi người hành nghề, cấp giấy phép hoạt động cho tất cả cơ sở KBCB không phân biệt Nhà nước hay tư nhân.
Các quy định về KBCB trong Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân đã được ban hành gần 20 năm, từ đó đến nay, thực tiễn đã có nhiều thay đổi, một số quan hệ xã hội mới nảy sinh nhưng chưa có quy phạm pháp luật đồng bộ để điều chỉnh như quyền và nghĩa vụ của người bệnh, của người hành nghề và của các cơ sở KBCB; công nhận chất lượng đối với cơ sở KBCB; sai sót chuyên môn kỹ thuật và giải quyết khiếu nại của người bệnh; áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong KBCB… Đây là các khoảng trống pháp luật cần phải được điều chỉnh.
Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong hoạt động kbcb
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới nên phải từng bước tuân thủ các hiệp định của Tổ chức này, trong đó có các dịch vụ y tế. Mặt khác, Việt Nam cũng đã ký kết Hiệp định khung về điều kiện hành nghề điều dưỡng giữa các nước ASEAN và sắp tới là Hiệp định khung về điều kiện hành nghề bác sỹ và nha sỹ… Do đó, Việt Nam cần phải nội luật hóa các quy định này để có cơ sở pháp lý thực hiện tại Việt Nam.
Từ các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, từ thực trạng công tác KBCB, thực trạng pháp luật về KBCB trên đây, việc ban hành Luật KBCB để cùng với các luật, pháp lệnh khác về y tế đã và sẽ ban hành để có một hệ thống pháp luật về y tế thống nhất, đồng bộ là hết sức cần thiết, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, thực hiện thành công sự nghiệp BV, CS & NCSKND.
Quan điểm và ý nghĩa của việc ban hành luật khám bệnh, chữa bệnh
Quan điểm
Thể chế hoá quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân nói chung và trong lĩnh vực khám bệnh chữa bệnh nói riêng.
Tổng kết kinh nghiệm, kế thừa có chọn lọc các quy định của pháp luật
về khám bệnh chữa bệnh trong thời gian qua.
Chứng chỉ hành nghề sẽ được cấp cho mọi người hành nghề khám bệnh chữa bệnh, giấy phép hoạt động sẽ được cấp cho mọi cơ sở khám bệnh chữa bệnh, kể cả trong khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân, bảo đảm các dịch vụ khám bệnh chữa bệnh này đều hoạt động trong một mặt bằng pháp luật bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử giữa hai khu vực Nhà nước và tư nhân.
Xã hội hóa hoạt động khám bệnh chữa bệnh thông qua việc đa dạng hóa các loại hình dịch vụ y tế.
Quản lý các hoạt động khám bệnh chữa bệnh trên cơ sở tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước và có sự tham gia tích cực của các hội nghề nghiệp, của người hành nghề, của người bệnh… để phù hợp với chuẩn mực của pháp luật quốc tế về khám bệnh chữa bệnh và đáp ứng với yêu cầu hội nhập.
Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ, tính khả thi trong thực tế và bảo đảm yếu tố về bình đẳng giới.
Ý nghĩa
Ngày 23/11/2009, Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 6 đã chính thức thông qua Luật Khám bệnh, chữa bệnh (KBCB) và Chủ tịch nước đã ký Lệnh công bố Luật này số 17/2009/L-CTN ngày 04/12/2009. Theo đó, Luật này sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011. Đây là đạo luật then chốt trong hoạt động y tế hiện nay.
Mọi quan hệ xã hội liên quan đến khám bệnh chữa bệnh đã được Luật này điều chỉnh. Đó là các quy định quyền và nghĩa vụ của người bệnh, người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; điều kiện đối với người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; quy định chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh; áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong khám bệnh, chữa bệnh; sai sót chuyên môn kỹ thuật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp trong khám bệnh, chữa bệnh; điều kiện bảo đảm công tác khám bệnh, chữa bệnh.
Luật Khám bệnh chữa bệnh được ban hành về cơ bản đã đạt được các mục đích đặt ra, đó là bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bệnh; nâng cao chất lượng khám bệnh chữa bệnh; giảm phiền hà cho người bệnh; nâng cao tính sẵn có trong việc tiếp cận các dịch vụ khám bệnh chữa bệnh ; xác định nền tảng cho sự phát triển y học thực chứng vì quyền lợi của người bệnh và là cơ sở pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ giữa người bệnh với người hành nghề khám bệnh chữa bệnh và với cơ sở khám bệnh chữa bệnh .
Bố cục và nội dung cơ bản của dự án luật
Luật có 9 chương, 91 điều và bao gồm các nội dung cơ bản sau:
Chương I – Những quy định chung
Gồm 6 điều (từ Điều 1 đến Điều 6) quy định về phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ; nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh chữa bệnh ; chính sách của nhà nước về khám bệnh chữa bệnh; trách nhiệm quản lý nhà nước về khám bệnh chữa bệnh và những hành vi bị nghiêm cấm.
Nội dung quan trọng của Chương này là điều chỉnh một cách thống nhất toàn bộ hoạt động khám bệnh chữa bệnh trong khu vực khám bệnh chữa bệnh của Nhà nước và khu vực tư nhân, tạo sự công bằng, bình đẳng giữa 2 khu vực khám bệnh chữa bệnh này như: quy định về quyền và nghĩa vụ của người bệnh, người hành nghề khám bệnh chữa bệnh và cơ sở khám bệnh chữa bệnh; quy định chuyên môn kỹ thuật khám bệnh chữa bệnh; áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong khám bệnh chữa bệnh; sai sót chuyên môn kỹ thuật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp trong khám bệnh chữa bệnh; điều kiện bảo đảm công tác khám bệnh chữa bệnh, từ đó đã tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa những người hành nghề và giữa các cơ sở khám bệnh chữa bệnh trong khu vực nhà nước và khu vực tư nhân nhằm đáp ứng các yêu cầu của công tác khám bệnh chữa bệnh. Bên cạnh đó, tại Điều 3 đã quy định 6 nguyên tắc cơ bản làm “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ nội dung của Dự thảo Luật. Đây là các nguyên tắc chủ đạo của công tác khám bệnh chữa bệnh. Các nguyên tắc này được xây dựng theo hướng tiếp cận quyền của người bệnh, bảo vệ những quyền lợi chính đáng của người hành nghề, đặc biệt thể hiện bản chất nhân đạo của công tác khám bệnh chữa bệnh.
Chương II – Quyền và nghĩa vụ của người bệnh
Gồm 10 điều (từ Điều 7 đến Điều 16) được chia thành 2 mục:
Mục 1. Quyền của người bệnh (từ Điều 7 đến Điều 13) bao gồm các quy định về quyền được khám bệnh chữa bệnh có chất lượng phù hợp với điều kiện thực tế; quyền được tôn trọng bí mật riêng tư; quyền được tôn trọng danh dự, bảo vệ sức khỏe trong khám bệnh chữa bệnh; quyền được lựa chọn trong khám bệnh chữa bệnh; quyền được cung cấp thông tin về hồ sơ bệnh án và chi phí khám bệnh chữa bệnh; quyền được từ chối chữa bệnh và ra khỏi cơ sở khám bệnh chữa bệnh và quyền của người bệnh bị mất năng lực hành vi dân sự, không có năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi.
Mục 2. Nghĩa vụ của người bệnh (từ Điều 14 đến Điều 16) bao gồm các quy định về nghĩa vụ tôn trọng người hành nghề; nghĩa vụ chấp hành các quy định trong khám bệnh chữa bệnh và nghĩa vụ chi trả chi phí khám bệnh chữa bệnh.
Nội dung của Chương này được tiếp cận trên cơ sở quyền con người và đã đề cập đầy đủ đến quyền và nghĩa vụ của người bệnh. Những quy định này đã khắc phục được tình trạng các quy định trước đây tuy đã được đề cập nhưng còn chung chung và mờ nhạt. Quyền của người bệnh được xây dựng trên cơ sở kế thừa quy định tại Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân và tham khảo các quy định tại Công ước Châu Âu về Nhân quyền và Y sinh học, Tuyên ngôn Helsinki của Hiệp hội y khoa Thế giới về nghiên cứu y sinh học (1964, bổ sung 1975, 1983, 1989) và Tuyên ngôn về những quyền của bệnh nhân của Hiệp hội y tế Thế giới (1995) để lựa chọn các quy định phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Điểm đặc biệt của chương này là mỗi quy định về quyền đều gắn chặt với nghĩa vụ mà người bệnh phải thực hiện nhằm tránh sự lạm quyền, làm ảnh hưởng đến uy tín nghề nghiệp của người hành nghề cũng như không tuân thủ nghiêm các quy định của cơ sở khám bệnh chữa bệnh.
Chương III – Người hành nghề khám bệnh chữa bệnh
Gồm 24 điều (từ Điều 17 đến Điều 40) được chia thành 4 mục:
Mục 1. Điều kiện đối với người hành nghề (từ Điều 17 đến Điều 25) quy định về người xin cấp chứng chỉ hành nghề; điều kiện để cấp chứng chỉ hành nghề đối với người Việt Nam; điều kiện để cấp chứng chỉ hành nghề tại Việt Nam đối với người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; điều kiện cấp lại chứng chỉ hành nghề đối với trường hợp bị thu hồi chứng chỉ hành nghề; khám bệnh chữa bệnh nhân đạo, chuyển giao kỹ thuật chuyên môn về khám bệnh chữa bệnh, hợp tác đào tạo về y có thực hành khám bệnh chữa bệnh; thừa nhận chứng chỉ hành nghề; sử dụng ngôn ngữ trong khám bệnh chữa bệnh tại Việt Nam của người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; xác nhận quá trình thực hành; chứng chỉ hành nghề.
Mục 2. Thẩm quyền, hồ sơ, thủ tục cấp, cấp lại và thu hồi chứng chỉ hành nghề Từ Điều 26 đến Điều 30) quy định về thẩm quyền cấp, cấp lại và thu hồi chứng chỉ hành nghề; hồ sơ cấp, cấp lại chứng chỉ hành nghề; thủ tục cấp, cấp lại chứng chỉ hành nghề; thu hồi chứng chỉ hành nghề, đình chỉ hành nghề và lệ phí cấp, cấp lại chứng chỉ hành nghề khám bệnh chữa bệnh.
Mục 3. Quyền của người hành nghề (từ Điều 31 đến Điều 35) quy định về quyền được hành nghề; quyền từ chối khám bệnh, chữa bệnh; quyền được nâng cao năng lực chuyên môn; quyền được bảo vệ khi xảy ra tai biến đối với người bệnh và quyền được bảo đảm an toàn khi hành nghề.
Mục 4. Nghĩa vụ của người hành nghề (từ Điều 36 đến Điều 40) quy định về nghĩa vụ đối với người bệnh; nghĩa vụ đối với nghề nghiệp; nghĩa vụ đối với đồng nghiệp và nghĩa vụ đối với xã hội và nghĩa vụ thực hiện đạo đức nghề nghiệp.
Các quy định tại Chương này đã thiết lập một cơ chế pháp lý rõ ràng bảo đảm nâng cao năng lực thực hành y khoa của người hành nghề, đặc biệt các quy định về điều kiện đối với người hành nghề đã được thống nhất đối với người hành nghề trong khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân, đặc biệt là các quy định này đã tiếp cận được với các chuẩn mực của pháp luật quốc tế về khám bệnh chữa bệnh. Việc cấp chứng chỉ hành nghề được quy định bắt buộc thực hiện đối với mọi người hành nghề, bao gồm cả người hành nghề là người Việt Nam và người nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài muốn hành nghề tại Việt Nam; đồng thời tại chương này cũng đưa ra quy định về hoạt động khám bệnh chữa bệnh nhân đạo để hợp pháp hóa việc tổ chức khám bệnh chữa bệnh nhân đạo tại Việt Nam của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, trong đó quy định giao cho Bộ trưởng Bộ Y tế quy định chi tiết điều kiện, hồ sơ, thủ tục đề nghị và thẩm quyền cho phép khám bệnh chữa bệnh nhân đạo. Bên cạnh đó, các quy định về nghĩa vụ của người hành nghề đã được quy định mở rộng hơn, ngoài việc quy định nghĩa vụ đối với bệnh nhân, các nghĩa vụ khác mà người hành nghề phải thực hiện như: Nghĩa vụ đối với nghề nghiệp, nghĩa vụ đối với xã hội…đã được đề cập cụ thể. Ngoài ra, bên cạnh một loạt những trách nhiệm phải thực hiện trong hành nghề, người hành nghề rất cần được hưởng những quyền lợi chính đáng. Một điều không thể không đề cập đến, đó là nghề y rất dễ bị tai nạn rủi ro nghề nghiệp, trong quá trình hành nghề, người hành nghề nào cũng có thể mắc lỗi, sai sót chuyên môn, kỹ thuật, nên họ có quyền được bảo vệ, đặc biệt cần được bảo hiểm rủi ro trách nhiệm nghề nghiệp. Vì vậy, vấn đề này cũng đã được đề cập trong mục quyền của người hành nghề.
Chương IV – Cơ sở khám bệnh chữa bệnh
Gồm 11 điều (từ Điều 41 đến Điều 53) được chia thành 4 mục:
Mục 1. Hình thức tổ chức và điều kiện hoạt động của các cơ sở khám bệnh chữa bệnh (từ Điều 41 đến Điều 44) quy định về các hình thức tổ chức của cơ sở khám bệnh chữa bệnh; điều kiện hoạt động của cơ sở khám bệnh chữa bệnh; điều kiện để cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh chữa bệnh; giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh chữa bệnh.
Mục 2. Thẩm quyền, hồ sơ, thủ tục cấp, cấp lại, điều chỉnh và thu hồi giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh chữa bệnh (từ Điều 45 đến Điều 49) quy định về thẩm quyền cấp, cấp lại, điều chỉnh và thu hồi giấy phép hoạt động đối với các cơ sở khám bệnh chữa bệnh; hồ sơ cấp, cấp lại, điều chỉnh giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh chữa bệnh; thu hồi và đình chỉ giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh chữa bệnh và lệ phí cấp, cấp lại, điều chỉnh giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh chữa bệnh.
Mục 3. Chứng nhận nâng cao chất lượng đối với cơ sở khám bệnh chữa bệnh (từ Điều 50 đến Điều 51) quy định về chứng nhận chất lượng đối với cơ sở khám bệnh chữa bệnh; các tổ chức chứng nhận chất lượng đối với cơ sở khám bệnh chữa bệnh.
Mục 4. Quyền và trách nhiệm của cơ sở khám bệnh chữa bệnh (từ Điều 52 đến Điều 53) quy định về quyền, trách nhiệm của cơ sở khám bệnh chữa bệnh.
Các quy định về điều kiện hoạt động của cơ sở khám bệnh chữa bệnh tại Chương này chính là nền tảng để nâng cao chất lượng khám bệnh chữa bệnh, từng bước đáp ứng các tiêu chuẩn của quốc tế về khám bệnh chữa bệnh, đặc biệt là các quy định về chứng nhận nâng cao chất lượng đối với cơ sở khám bệnh chữa bệnh nhằm bảo đảm tính ổn định ở mức độ cao trong việc cung cấp dịch vụ khám bệnh chữa bệnh. Ngoài ra, Chương này cũng quy định đầy đủ về quyền và trách nhiệm của cơ sở khám bệnh chữa bệnh, cùng với các quy định về quyền và nghĩa vụ của người hành nghề, đã nâng cao trách nhiệm của người hành nghề và cơ sở khám bệnh chữa bệnh trong thực hiện khám bệnh chữa bệnh cho người bệnh, đồng thời cũng bảo vệ cho người hành nghề, cơ sở khám bệnh chữa bệnh trong những trường hợp xảy ra rủi ro hoặc trong những trường hợp vượt quá khả năng, điều kiện thực tế mà không thể đáp ứng yêu cầu của người bệnh cũng như tình trạng bệnh.
Chương V – Các quy định về chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh chữa bệnh
Gồm 15 điều (từ Điều 54 đến Điều 68) bao gồm các quy định về cấp cứu; chẩn đoán bệnh, chỉ định phương pháp điều trị và kê đơn thuốc; hội chẩn; điều trị ngoại trú; điều trị nội trú; hồ sơ bệnh án; sử dụng thuốc trong cơ sở khám bệnh chữa bệnh có điều trị nội trú; thực hiện phẫu thuật, can thiệp ngoại khoa; kiểm soát nhiễm khuẩn trong cơ sở khám bệnh chữa bệnh; xử lý chất thải y tế; giải quyết đối với người bệnh không có người nhận; giải quyết đối với người bệnh tử vong; bắt buộc chữa bệnh; trực khám bệnh chữa bệnh và kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại trong quá trình khám bệnh chữa bệnh.
Nội dung của Chương này tập trung vào các quy định thuần túy về chuyên môn, kỹ thuật được luật hóa từ các quy định dưới luật nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý của các quy định trong thực tiễn. Đây chính là cơ sở thực tế cho việc bảo đảm về chuyên môn đối với quyền của người bệnh và cũng là cơ sở cho việc xử lý pháp luật đối với các vi phạm quy định về chuyên môn kỹ thuật của người hành nghề.
Chương VI – Áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong khám bệnh chữa bệnh
Gồm 4 Điều (từ Điều 69 đến Điều 72) quy định về kỹ thuật, phương pháp mới trong khám bệnh chữa bệnh; điều kiện áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong khám bệnh chữa bệnh tại Việt Nam; thẩm quyền cho phép áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới và hồ sơ, thủ tục cho phép cơ sở khám bệnh chữa bệnh áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong khám bệnh chữa bệnh. Đây là nội dung rất mới được được đưa vào Luật trên cơ sở những quy định dưới Luật đã được thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn. Các quy định này đã phân định rõ các loại kỹ thuật, phương pháp mới được xem xét để cho phép áp dụng tại Việt Nam cũng như thẩm quyền cho phép áp dụng các kỹ thuật, phương pháp mới này để tránh áp dụng tùy tiện trong thực tiễn, bảo đảm an toàn về sức khỏe và tính mạng cho người bệnh.
Chương VII – Sai sót chuyên môn kỹ thuật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp trong khám bệnh chữa bệnh
Gồm 8 Điều (từ Điều 73 đến Điều 80) được chia thành 2 mục:
Mục 1. Sai sót chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh chữa bệnh (từ Điều 73 đến Điều 78) quy định về xác định người hành nghề có sai sót hoặc không có sai sót chuyên môn kỹ thuật; thành lập hội đồng chuyên môn; thành phần, nguyên tắc hoạt động và nhiệm vụ của hội đồng chuyên môn; trách nhiệm của người hành nghề, cơ sở khám bệnh chữa bệnh khi xảy ra tai biến trong khám bệnh chữa bệnh; xác định mức bồi thường thiệt hại do sai sót chuyên môn kỹ thuật gây ra tai biến trong khám bệnh chữa bệnh và bảo hiểm trách nhiệm trong trong khám bệnh chữa bệnh.
Mục 2. Khiếu nại, tố cáo và giải quyết tranh chấp về khám bệnh chữa bệnh (từ Điều 79 đến Điều 80) quy định về khiếu nại, tố cáo về khám bệnh chữa bệnh và tranh chấp về khám bệnh chữa bệnh.
Các quy định tại Chương này đã đặt ra cơ chế pháp lý để bảo vệ các quyền của người bệnh cũng như quyền của người hành nghề trong khám bệnh chữa bệnh, đồng thời cũng nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ sở khám bệnh chữa bệnh và người hành nghề trong quá trình khám bệnh chữa bệnh, đặc biệt đã quy định cụ thể những trường hợp nào phải bồi thường, trường hợp nào không phải bồi thương thiệt hại cho người bệnh khi xảy ra tai biến trong khám bệnh chữa bệnh. Chương này cũng đưa ra những quy định về giải quyết tranh chấp về khám bệnh chữa bệnh, đây là những quy định mang tính đặc thù liên quan trực tiếp đến các hành vi chuyên môn kỹ thuật trong hoạt động khám bệnh chữa bệnh mà pháp luật hiện hành chưa đề cập một cách cụ thể.
Chương VIII- Các điều kiện bảo đảm công tác khám bệnh chữa bệnh
Gồm 9 điều (từ Điều 81 đến Điều 89) quy định về hệ thống tổ chức cơ sở khám bệnh chữa bệnh; quy hoạch hệ thống cơ sở khám bệnh chữa bệnh; đào tạo, bồi dưỡng người hành nghề; chế độ đối với người hành nghề; các nguồn tài chính phục vụ cho công tác khám bệnh chữa bệnh; ngân sách nhà nước chi cho công tác y tế; xã hội hóa công tác khám bệnh chữa bệnh; giá dịch vụ khám bệnh chữa bệnh; quỹ hỗ trợ khám bệnh chữa bệnh.
Nội dung của Chương này tập trung vào việc quy định cơ chế bảo đảm các nguồn lực nhằm bảo đảm thực hiện tốt công tác khám bệnh chữa bệnh như tài chính, cơ sở vật chất, con người, chế độ đối với người hành nghề khám bệnh chữa bệnh…
Chương VI – Điều khoản thi hành
Gồm 2 Điều (từ Điều 90 đến Điều 91) quy định về hiệu lực thi hành và quy định chi tiết thi hành.
Các chế định pháp luật cần quan tâm trong luật khám bệnh, chữa bệnh
Nhất thể pháp luật giữa khu vực khám bệnh chữa bệnh nhà nước và tư nhân
Luật đã nhất thể hóa về mặt pháp luật, tạo sự công bằng, bình đẳng giữa khu vực khám bệnh chữa bệnh Nhà nước và tư nhân, từ đó đã tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa những người hành nghề và giữa các cơ sở khám bệnh chữa bệnh trong cả hai khu vực này nhằm đáp ứng các yêu cầu thực tiễn của công tác khám bệnh chữa bệnh. Điều này được thể hiện qua các quy định của Luật như: quy định về điều kiện đối với người hành nghề tại Mục 1 Chương III và mục I Chương IV của Luật, theo đó người hành nghề dù làm việc trong khu vực Nhà nước hay tư nhân đều phải đáp ứng các điều kiện như nhau trong cùng một mặt bằng pháp luật; tương tự đối với các cơ sở khám bệnh chữa bệnh cũng vậy cho dù là cơ sở của Nhà nước hay của tư nhân đều phải tuân thủ và đáp ứng đầy đủ các điều kiện tối thiểu mà một cơ sở khám bệnh chữa bệnh phải có được nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác khám bệnh chữa bệnh. Từ đó, chứng chỉ hành nghề sẽ được cấp cho tất cả những người hành nghề có đủ điều kiện hành nghề trong khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân (thay vì theo quy định định trước đây chỉ cấp cho người đứng đầu của cơ sở khám bệnh chữa bệnh tư nhân), giấy phép hoạt động sẽ được cấp cho tất cả các cơ sở khám bệnh chữa bệnh có đủ điều kiện trong khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân (thay vì theo quy định của pháp luật trước đây, việc cấp phép này chỉ được thực hiện đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của tư nhân). Luật cũng quy định rất rõ tại Điều 29 và Điều 48 về các trường hợp chứng chỉ hành nghề, giấy phép hành nghề bị đình chỉ, thu hồi và quy định này cũng được áp dụng đối với bất kỳ người hành nghề hoặc cơ sở khám bệnh chữa bệnh nào vi phạm luật.
Tiếp cận quyền của người bệnh theo hướng tôn trọng quyền con người
Đây là đạo luật đầu tiên về y tế đề cập đầy đủ đến quyền và nghĩa vụ của người bệnh, quyền và nghĩa vụ của người hành nghề. Cụ thể, toàn bộ chương II của Luật đã đưa ra các quy định rất cụ thể và đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của người bệnh, theo đó, người bệnh có các quyền sau: Quyền được khám bệnh, chữa bệnh có chất lượng phù hợp với điều kiện thực tế; quyền được tôn trọng bí mật riêng tư; quyền được tôn trọng danh dự; bảo vệ sức khỏe trong khám bệnh chữa bệnh, quyền được lựa chọn trong khám bệnh chữa bệnh; quyền được cung cấp thông tin về hồ sơ bệnh án và chi phí khám bệnh chữa bệnh; quyền được từ chối chữa bệnh và ra khỏi cơ sở khám bệnh chữa bệnh; quyền của người bệnh bị mất năng lực hành vi dân sự, không có năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Bên cạnh các quyền của mình, người bệnh còn phải thực hiện các nghĩa vụ sau: Nghĩa vụ tôn trọng người hành nghề; nghĩa vụ chấp hành các quy định trong khám bệnh chữa bệnh; nghĩa vụ chi trả chi phí khám bệnh chữa bệnh.
So với các quy định của pháp luật trước đây, Luật khám bệnh chữa bệnh đã thể hiện được những quyền lợi thiết thực của người bệnh trong khám bệnh chữa bệnh, đó là những quyền nhân thân mà họ đáng được hưởng như: quyền quyết định những vấn đề về khám bệnh chữa bệnh liên quan đến bản thân; quyền được tôn trọng bí mật riêng tư; quyền được tôn trọng nhân phẩm; quyền được từ chối chữa bệnh…
Tương ứng với quyền và nghĩa vụ của người bệnh, Luật đã quy định khá rõ nét về quyền và nghĩa vụ của người hành nghề thể hiện tại Mục 3 Chương III của Luật. Theo đó, để bảo đảm an toàn, chất lượng chuyên môn trong quá trình hành nghề, người hành nghề có những quyền sau: Quyền được hành nghề, quyền từ chối khám bệnh chữa bệnh, quyền được nâng cao năng lực huyên môn; quyền được bảo vệ khi xảy ra tai biến đối với người bệnh; quyền được bảo đảm an toàn khi hành nghề. Các quy định này đã thể hiện được những quyền lợi chính đáng mà người hành nghề có quyền được hưởng, đặc biệt là quyền được bảo vệ khi xảy ra tai nạn nghề nghiệp đối với thầy thuốc và nhân viên y tế cũng chưa được pháp luật đề cập nên dẫn đến tình trạng khiếu kiện xảy ra nhiều trong khi đó thủ tục và trình tự giải quyết các khiếu kiện này cũng chưa được quy định cụ thể. Bên cạnh việc quy định quyền, luật cũng quy định khá cụ thể về nghĩa vụ của người hành nghề như: Nghĩa vụ đối với người bệnh; nghĩa vụ đối với nghề nghiệp; nghĩa vụ đối với đồng nghiệp; nghĩa vụ đối với xã hội; nghĩa vụ thực hiện đạo đức nghề nghiệp. Các quy định này đã đề cập một cách rõ ràng về nghĩa vụ của người hành nghề đối với từng nhóm đối tượng khác nhau mà họ phải tiếp xúc trong quá trình hành nghề và thông qua đó tính chất nghề nghiệp được giữ gìn và bảo vệ.
Nguyên tắc cơ bản trong hành nghề khám bệnh chữa bệnh
Điều 3 Luật Khám bệnh chữa bệnh đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản trong khám bệnh chữa bệnh. Đây là các nguyên tắc được áp dụng thống nhất và xuyên suốt trong Luật này. Đó là các nguyên tắc:
Bình đẳng, công bằng và không kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người bệnh.
Tôn trọng quyền của người bệnh; giữ bí mật thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 8, khoản 1 Điều 11 và khoản 4 Điều 59 của Luật này.
Kịp thời và tuân thủ đúng quy định chuyên môn kỹ thuật.
Ưu tiên khám bệnh chữa bệnh đối với trường hợp cấp cứu, trẻ em dưới 6 tuổi, người khuyết tật nặng, người từ đủ 80 tuổi trở lên, người có công với cách mạng, phụ nữ có thai.
Bảo đảm đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề.
Tôn trọng, hợp tác và bảo vệ người hành nghề khi làm nhiệm vụ.
Trong 6 nguyên tắc này thì có 5 nguyên tắc dành cho người hành nghề khám bệnh chữa bệnh và chỉ có một nguyên tắc dành cho người bệnh đã thể hiện nhất quán quan điểm lấy người bệnh làm trung tâm trong các hoạt động khám bệnh chữa bệnh.
Các hành vi bị nghiêm cấm
Điều 6 Luật khám bệnh chữa bệnh đã chỉ rõ các hành vi bị cấm liên quan đến khám bệnh chữa bệnh. Đây là các hành vi mà nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm sẽ bị xử lý rất nghiêm khắc nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bệnh và người hành nghề khám bệnh chữa bệnh. Đó là các hành vi:
Từ chối hoặc cố ý chậm cấp cứu người bệnh.
Khám bệnh, chữa bệnh không có chứng chỉ hành nghề hoặc đang trong thời gian bị đình chỉ hành nghề; cung cấp dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh mà không có giấy phép hoạt động hoặc đang trong thời gian bị đình chỉ hoạt động. – Hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, cung cấp dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh vượt quá phạm vi hoạt động chuyên môn được ghi trong chứng chỉ hành nghề, giấy phép hoạt động, trừ trường hợp cấp cứu.
Thuê, mượn, cho thuê, cho mượn chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hoạt động.
Người hành nghề bán thuốc cho người bệnh dưới mọi hình thức, trừ bác sỹ đông y, y sỹ đông y, lương y và người có bài thuốc gia truyền. – Áp dụng phương pháp chuyên môn kỹ thuật y tế chưa được công nhận, sử dụng thuốc chưa được phép lưu hành trong khám bệnh, chữa bệnh.
Quảng cáo không đúng với khả năng, trình độ chuyên môn hoặc quá phạm vi hoạt động chuyên môn được ghi trong chứng chỉ hành nghề, giấy phép hoạt động; lợi dụng kiến thức y học cổ truyền hoặc kiến thức y khoa khác để quảng cáo gian dối về phương pháp chữa bệnh, thuốc chữa bệnh. – Sử dụng hình thức mê tín trong khám bệnh, chữa bệnh.
Người hành nghề sử dụng rượu, bia, thuốc lá hoặc có nồng độ cồn trong máu, hơi thở khi khám bệnh, chữa bệnh.
Vi phạm quyền của người bệnh; không tuân thủ các quy định chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh; lạm dụng nghề nghiệp để xâm phạm danh dự, nhân phẩm, thân thể người bệnh; tẩy xóa, sửa chữa hồ sơ bệnh án nhằm làm sai lệch thông tin về khám bệnh, chữa bệnh.
Gây tổn hại đến sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người hành nghề.
Ngăn cản người bệnh thuộc diện chữa bệnh bắt buộc vào cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc cố ý thực hiện chữa bệnh bắt buộc đối với người không thuộc diện chữa bệnh bắt buộc.
Cán bộ, công chức, viên chức y tế thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành bệnh viện tư nhân hoặc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp và Luật hợp tác xã, trừ trường hợp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cử tham gia quản lý, điều hành tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có phần vốn của Nhà nước.
Đưa, nhận, môi giới hối lộ trong khám bệnh, chữa bệnh.
Nâng cao kỹ năng thực hành của người hành nghề khám bệnh chữa bệnh
Luật đã thiết lập một cơ chế pháp lý rõ ràng bảo đảm nâng cao năng lực của người hành nghề, đặc biệt các quy định về điều kiện đối với người hành nghề đã tiếp cận được các chuẩn mực của pháp luật quốc tế về khám bệnh, chữa bệnh. Cụ thể luật đưa ra các quy định cụ thể về điều kiện để cấp chứng chỉ hành nghề đối với người Việt Nam; điều kiện để cấp chứng chỉ hành nghề tại Việt Nam đối với người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; điều kiện cấp lại chứng chỉ hành nghề đối với các trường hợp bị thu hồi chứng chỉ hành nghề, trong đó có các trường hợp “Người hành nghề không hành nghề trong thời gian 2 năm liên tục; Người hành nghề được xác định có sai sót chuyên môn kỹ thuật gây hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng người bệnh; Người hành nghề không cập nhật kiến thức y khoa liên tục trong thời gian 02 năm liên tiếp”. Đặc biệt, luật quy định “có giấy chứng nhận đã cập nhật kiến thức y khoa liên tục” là một trong các điều kiện để không bị thu hồi chứng chỉ hành nghề. Một vấn đề rất cần thiết trong công tác khám bệnh, chữa bệnh nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập hiện nay cũng đã được quy định tại Điều 22 của luật về thừa nhận chứng chỉ hành nghề, đó là “Việc thừa nhận chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh giữa các nước được thực hiện theo quy định của thảo thuận quốc tế hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Ngoài ra, tại Điều 23 của luật quy định về sử dụng ngôn ngữ trong khám bệnh, chữa bệnh tại Việt Nam của người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, trong đó có quy định cụ thể “Người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài trực tiếp khám bệnh, chữa bệnh cho người Việt Nam được xác định là biết tiếng Việt thành thạo và người được xác định là đủ trình độ phiên dịch trong khám bệnh, chữa bệnh khi được cơ sở đào tạo chuyên ngành y do Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ định kiểm tra và công nhận. Như vậy, thay vì quy định việc xem xét khả năng biết tiếng Việt thành thạo chỉ mang tính hình thức qua việc xem xét văn bằng, chứng chỉ, luật khám bệnh, chữa bệnh đã đưa ra quy định việc thực hiện kiểm tra và công nhận khả năng, trình độ thực tế trong sử dụng tiếng Việt của người nước ngoài, người phiên dịch bởi một cơ sở đào tạo chuyên ngành y do Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ định. Đây là phương thức công nhận hết sức tiến bộ, phù hợp với xu hướng hội nhập hiện nay.
Vấn đề khám bệnh chữa bệnh nhân đạo, việc chuyển giao các kỹ thuật chuyên môn về khám, chữa bệnh nhân, hợp tác đào tạo về y có thực hành khám bệnh chữa bệnh
Đây cũng là một nội dung rất mới được đưa vào Luật. Theo đó, cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước có quyền đề nghị được tổ chức khám bệnh chữa bệnh nhân đạo hoặc chuyển giao kỹ thuật chuyên môn về khám bệnh chữa bệnh hoặc hợp tác đào tạo về y có thực hành khám bệnh, chữa bệnh tại Việt Nam. Quy định này nhằm mở rộng, phát triển và đa dạng hóa các hình thức khám bệnh chữa bệnh, cũng như việc hợp tác trao đổi kinh nghiệm giữa các nước.
Điều kiện cấp giấy phép hoạt động cho cơ sở khám bệnh chữa bệnh
Các quy định về điều kiện cấp giấy phép hoạt động của cơ sở khám bệnh chữa bệnh trong Luật chính là nền tảng để nâng cao chất lượng khám bệnh chữa bệnh. Điều này được thể hiện rõ tại Điều 43 của Luật như sau “Đáp ứng các quy định của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở khám bệnh, chữa bệnh do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành; có đủ người hành nghề phù hợp với phạm vi hoạt động chuyên môn; người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải có thời gian hành nghề khám bệnh, chữa bệnh ít nhất là 36 tháng”. Các quy định về công nhận chất lượng đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã đáp ứng các tiêu chuẩn của quốc tế về khám bệnh, chữa bệnh và tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhằm hướng đến việc cung cấp các dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tốt nhất cho người bệnh, cụ thể tại khoản 1 Điều 50 của Luật có quy định “Tiêu chuẩn quản lý chất lượng đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh là yêu cầu về đặc tính kỹ thuật và quản lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá chất lượng của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh do tổ chức trong nước hoặc nước ngoài ban hành được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thừa nhận”.
Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
Luật đã đưa ra những quy định về thời hạn, giá trị của chứng chỉ hành nghề và giấy phép hoạt động của cơ sở khám bệnh chữa bệnh. Đó là, theo quy định tại Điều 25 của Luật thì chứng chỉ hành nghề được cấp một lần và có giá trị trong phạm vi cả nước; tại Điều 44 của Luật quy định giấy phép hoạt động được cấp một lần cho cơ sở khám bệnh chữa bệnh. Quy định theo hướng này có ưu điểm là đơn giản, bớt tốn kém, thuận lợi cho cả cơ quan quản lý nhà nước và người hành nghề, cơ sở khám bệnh chữa bệnh, hạn chế thủ tục xin cho, phù hợp với điều kiện của cơ quan quản lý nhà nước và xu thế cải cách hành chính, đặc biệt đối với người hành nghề, việc quy định chứng chỉ hành nghề có giá trị trong phạm vi toàn quốc tạo điều kiện thuận lợi cho người hành nghề trong giao lưu quốc tế về chuyên môn kỹ thuật thông qua việc thừa nhận chứng chỉ hành nghề giữa các nước. Tuy nhiên, đã cũng chính là điểm hạn chế của Luật vì không có nước nào trên thế giới quy định thời hạn của chứng chỉ hành nghề, giấy phép hoạt động vĩnh viễn như Việt Nam.
Chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh chữa bệnh
Đây là nội dung mới mà chưa được luật nào đề cập, Luật khám bệnh chữa bệnh đã đưa ra một loạt các quy định chuyên môn như: Cấp cứu, chẩn đoán bệnh, chỉ định phương pháp điều trị và kê đơn thuốc, hội chẩn, điều trị ngoại trú, điều trị nội trú, hồ sơ bệnh án…
Trong quy định về hồ sơ bệnh án có chế định về việc lưu hồ sơ bệnh án bằng bản điện tử, việc khai thác hồ sơ bệnh án trong một số trường hợp cụ thể và quy định về quyền của người bệnh hoặc người đại diện của người bệnh được nhận bản tóm tắt hồ sơ bệnh án theo quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này (điểm c, khoản 4 Điều 59)… Đây là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc triển khai thực hiện các hoạt động về chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh và cũng là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bệnh và người hành nghề khám bệnh chữa bệnh.
Áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong khám bệnh chữa bệnh
Vấn đề này mới chỉ được quy định rải rác tại các văn bản cấp Bộ, vì vậy trong thực tế thực hiện các quy định này đã gặp một số các khó khăn, vướng mắc. Mặt khác, do quy định ở văn bản cấp Bộ ban hành nên hiệu lực pháp lý của các quy định chưa cao, đặc biệt nhiều quy định còn chưa rõ ràng. Chính vì vậy, vấn đề này đã được luật hóa bởi một chương trong Luật, bao gồm các quy định về điều kiện áp dụng, thẩm quyền cho phép áp dụng, hồ sơ, thủ tực cho phép cơ sở khám bệnh, chữa bệnh áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong khám bệnh,chữa bệnh tại Việt Nam. Theo đó, thẩm quyền cho phép áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong khám bệnh, chữa bệnh được gia cho Bộ trưởng Bộ Y tế và Giám đốc Sở y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Các quy định này chính là cơ sở pháp lý để Việt Nam tiếp cận nền khoa học kỹ thuật tiến tiến của các nước trên thế giới và áp dụng trực tiếp trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh, góp phần nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh và đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Sai sót chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh chữa bệnh
Một vấn đề mới nữa cũng được đề cập trong Luật, đó là các quy định về sai sót chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh, theo đó Luật đã đặt ra cơ chế pháp lý để bảo vệ các quyền của người bệnh cũng như của người hành nghề trong khám bệnh, chữa bệnh, đồng thời cũng nhằm nâng cao trách nhiệm của người hành nghề trong quá trình khám bệnh chữa bệnh. Cụ thể, luật đã đưa ra các quy định cụ thể về xác định người hành nghề có sai sót hoặc không có sai sót chuyên môn kỹ thuật, thành lập Hội đồng chuyên môn để xác định người hành nghề có hay không có sai sót chuyên môn kỹ thuật; trách nhiệm của người hành nghề, cơ sở khám bệnh chữa bệnh khi xảy ra tai biến trong khám bệnh chữa bệnh và bảo hiểm trách nhiệm trong khám bệnh chữa bệnh.
Điều 73 Luật Khám bệnh chữa bệnh quy định rõ việc xác định người hành nghề có sai sót hoặc không có sai sót chuyên môn kỹ thuật như sau: Người hành nghề có sai sót chuyên môn kỹ thuật khi được hội đồng chuyên môn xác định đã có một trong các hành vi sau đây: vi phạm trách nhiệm trong chăm sóc và điều trị người bệnh; vi phạm các quy định chuyên môn kỹ thuật và đạo đức nghề nghiệp; xâm phạm quyền của người bệnh. Đồng thời Luật Khám bệnh chữa bệnh cũng xác định người hành nghề không có sai sót chuyên môn kỹ thuật khi được hội đồng chuyên môn xác định thuộc một trong các trường hợp sau đây: đã thực hiện đúng các quy định chuyên môn kỹ thuật trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh nhưng vẫn xảy ra tai biến đối với người bệnh; trong trường hợp cấp cứu nhưng do thiếu phương tiện, thiết bị kỹ thuật, thiếu người hành nghề theo quy định của pháp luật mà không thể khắc phục được hoặc bệnh đó chưa có quy định chuyên môn để thực hiện dẫn đến xảy ra tai biến đối với người bệnh; các trường hợp bất khả kháng khác dẫn đến xảy ra tai biến đối với người bệnh.
Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo về khám bệnh chữa bệnh
Mặc dù pháp luật về khiếu nại tố cáo đã quy định rất cụ thể về vấn đề này, nhưng nhằm giải quyết triệt để những vấn đề xảy ra trong thực tiễn công tác khám bệnh chữa bệnh, Luật đã đưa ra các quy định mang tính đặc thù liên quan trực tiếp đến các hành vi chuyên môn kỹ thuật trong hoạt động khám bệnh chữa bệnh mà pháp luật về khiếu nại, tố cáo chưa quy định như vấn đề tranh chấp về giải quyết tranh chấp trong khám bệnh chữa bệnh.
Điều 80 Luật khám bệnh chữa bệnh đã quy định cụ thể cách thức giải quyết tranh chấp về khám bệnh chữa bệnh như sau:
Tranh chấp về khám bệnh chữa bệnh là tranh chấp liên quan đến quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong khám bệnh chữa bệnh giữa các đối tượng sau đây: người bệnh, người đại diện của người bệnh; người hành nghề; cơ sở khám bệnh chữa bệnh.
Tranh chấp về khám bệnh chữa bệnh được giải quyết như sau: các bên tranh chấp có trách nhiệm tự hòa giải về nội dung tranh chấp; trường hợp hòa giải không thành thì các bên tranh chấp có quyền khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật.
Luật Khám bệnh, chữa bệnh được Quốc hội thông qua và được Chủ tịch nước công bố là một sự kiện hết sức quan trọng. Luật đã thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về khám bệnh chữa bệnh, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động khám bệnh chữa bệnh trong giai đoạn đổi mới hệ thống y tế hiện nay, góp phần tích cực vào việc thực hiện thành công sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Tài liệu tham khảo
Luật Khám bệnh, chữa bệnh
Nghị quyết số 46 NQ/TW ngày 23 tháng 2 năm 2005 về công tác chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới
Quyết định153/2006/QĐ-TTg ngày 30 tháng 6 năm 2006 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020
[1] Bộ Y tế, Niên giám thống kê y tế năm 2007.
[2] Quy hoạch hệ thống y tế năm 2007.
[3] Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê y tế năm 2010 – tr. 43.
[4] Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê y tế năm 2009 – tr 49.