Nội dung

Rối loạn  lo âu

Đại cương.

Khái niệm:

Rối loạn lo âu là sự sợ hãi quá mức, không có nguyên nhân, do chủ quan của người bệnh và không thể giải thích được do một bệnh tâm thần khác  hoặc do  một bệnh cơ thể. Rối loạn lo âu là rối loạn mà bệnh nhân không thể  kiểm soát  được,  biểu hiện vững chắc, mạn  tính  và  khuếch  tán  dưới  dạng kịch phát.  Bệnh nhân có rối loạn lo âu, đặc  biệt  là cơn hoảng  sợ,  thường  kèm theo các rối loạn chức năng xã hội và có nguy cơ lạm dụng thuốc cao hơn người bình thường.

Bệnh sinh:

Giả thuyết về di truyền:

Ở những người họ hàng mức  độ  I của bệnh nhân  thì  nguy  cơ bị rối loạn lo âu lên tới 19,5 %. Ở những người  sinh đôi cùng trứng nguy  cơ bị rối loạn lo âu cao  hơn nhiều so với người sinh đôi khác trứng.

Giả thuyết về catecholamin:

Bệnh nhân rối loạn lo âu có tăng tiết adrenalin làm ảnh hưởng đến các triệu chứng lâm sàng do tích lũy axit lactic và axit  béo  tự do. Thực tế cho thấy các thuốc ức chế beta đặc biệt là ức chế ngoại vi có tác dụng chống lo âu.

Giả thuyết serotonin:

Vai trò của serotonin trong rối loạn lo âu đánh giá trước hết là do  tác  dụng chống lo âu của một số thuốc chống trầm cảm tác dụng trên thụ cảm thể 5HT như clomipramin.

Các biểu hiện cơ thể của rối loạn lo âu:

Tim mạch:

Hồi hộp.

Tăng huyết áp động mạch.

Đau, bỏng vùng trước ngực.

Cảm giác co thắt trong lồng ngực

Dạ dày – ruột:

Nôn.

Cảm giác trống rỗng trong dạ dày.

Trướng bụng.

Khô miệng.

Tăng nhu động ruột.

Cảm giác “hòn, cục ở trong cổ”.

Hô hấp:

Tăng nhịp thở.

Cảm giác thiếu không khí.

Cảm giác khó thở.

Các biểu hiện khác:

Tăng trương lực cơ.

Run.

Mệt mỏi.

Ra mồ hôi.

Chóng mặt.

Đau đầu.

Giãn đồng tử.

Mót đi tiểu.

Rét run.

Một số rối loạn lo âu.

Ám ảnh sợ khoảng trống không có tiền sử hoảng sợ:

Lâm sàng:

Bệnh nhân có các triệu chứng bất  kì  trong số các  triệu chứng như  khó  chịu, mất kiểm soát  đi tiểu, sợ ra khỏi  nhà một  mình,  sợ không kiểm soát  được  mình, sợ không có người giúp đỡ thì sẽ ngã…

Để xác định chẩn đoán, các tiêu chuẩn cho hoảng sợ không bao giờ được thoả mãn đầy đủ. Các triệu chứng đó không phải là hậu  quả  của một  chất  (ví  dụ lạm dụng ma túy) hoặc một bệnh thực tổn (ví dụ bệnh tim mạch).

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo dsm-iv:

A. Có ám ảnh sợ khoảng trống liên quan đến sự xuất hiện của một số triệu chứng giống hoảng sợ (ví dụ: chóng mặt hoặc đi ngoài).

B. Không bao giờ thoả mãn các tiêu chuẩn cho hoảng sợ.

C. Rối loạn không phải là hậu quả sinh lí trực tiếp của một chất (ví dụ:  lạm  dụng ma túy, thuốc) hoặc một bệnh thực tổn.

D. Nếu có bệnh cơ thể phối hợp, sợ ở tiêu chuẩn A là rất rõ ràng so với bệnh thực tổn gây ra.

Ám ảnh sợ khoảng trống có tiền sử hoảng sợ:

Lâm sàng:

Triệu chứng của bệnh là sợ ở  một  mình  hoặc  không có người giúp đỡ trong cơn hoảng sợ kịch phát, bệnh nhân né tránh các tình huống ám ảnh  như  sợ chỉ có một mình khi ra khỏi nhà hoặc khi đi ôtô  buýt,  đi  máy  bay…  Có  một  số  bệnh nhân khắc phục tình  huống  sợ  hãi,  né  tránh  bằng  cách đi  cùng người  khác. Việc né tránh các tình huống có thể gây ảnh  hưởng  đến khả  năng  làm  việc  hoặc  khả năng nội trợ (ví dụ: không tự đi mua sắm hoặc không tự đưa con đến trường).

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo dsm-iv:

A. Lo âu liên quan đến các tình huống hoặc ở nơi không thể có đường thoát hoặc không có người giúp đỡ trong xung động hoảng sợ hoặc một số triệu chứng giống hoảng sợ. Sợ khoảng trống được áp  dụng  cho  các  tình  huống  như  bệnh  nhân ở một mình ở trên tàu, trên xe buýt, trên cầu, nơi đông người.

B. Các tình huống là thật sự rõ rệt, thậm chí tạo ra một khủng hoảng hoặc cơn hoảng sợ, hoặc các triệu chứng giống với hoảng sợ hoặc  cần phải  có  người  giúp đỡ bên cạnh.

C. Lo âu hoặc né tránh sợ hãi không giải thích được do  một  bệnh tâm thần khác.

Cơn hoảng sợ kịch phát:

Đặc điểm lâm sàng:

Đặc điểm lâm sàng của cơn hoảng sợ kịch phát là có một  giai  đoạn hoảng sợ kịch phát với ít nhất 4 trong số 13 triệu chứng cơ thể và nhận thức.

Cơn hoảng sợ kịch phát khởi phát đột  ngột  và  nhanh  chóng đến cường độ  tối đa (thường sau 10 phút  hoặc  ngắn  hơn).  Phối  hợp với  cảm giác  nguy  hiểm hoặc đe doạ bị chết và mong muốn được thoát khỏi tình trạng này.

13 triệu chứng cơ thể và nhận thức là:

Hồi hộp.

Ra mồ hôi.

Run.

Thở nông hoặc bị nghẹn ở cổ.

Cảm giác hụt hơi.

Đau hoặc khó chịu ở vùng trước tim.

Nôn hoặc khó chịu ở vùng bụng.

Chóng mặt.

Giải thể nhân cách.

Sợ mất kiểm soát.

Sợ chết.

Dị cảm.

Rét run hoặc nóng bừng.

Khi cơn hoảng sợ tái phát, cường độ sợ hãi có thể giảm đi và thở gấp là triệu chứng hay gặp. Có 3 loại cơn hoảng sợ kịch phát:

Cơn hoảng sợ kịch phát không có dấu hiệu, không có tình huống thuận lợi.

Cơn hoảng sợ kịch phát có dấu hiệu có tình huống thuận lợi.

Cơn hoảng sợ kịch phát có thể  xuất  hiện nhưng  không phải  ngay lập tức mà  có thể sau một thời gian  ngắn,  trước  một  kích  thích  hoặc  một tình huống thuận lợi.

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo icd-10:

Để chẩn đoán quyết định các cơn lo  âu  trầm  trọng xảy  ra trong khỏng  thời  gian 1 tháng:

a/ Trong hoàn cảnh không có nguy hiểm về mặt khách quan.

b/ Không khu trú vào hoàn cảnh được biết  trước  hoặc  không  lường  trước được.

c/ Giữa các cơn bệnh nhân thoát  ra khỏi  một  cách tương đối  các  triệu chứng lo âu.

Ám ảnh sợ xã hội:

Đặc điểm lâm sàng:

Ám ảnh sợ xã hội thường bắt đầu ở tuổi  thanh  thiếu niên biểu hiện sợ  người khác nhìn chăm chú vào mình dẫn đến né tránh các hoàn cảnh xã hội, ám ảnh sợ xã hội phổ biến đều nhau ở nam và nữ. Ám  ảnh  có  thể  kín đáo  như  sợ ăn uống ở nơi công cộng hoặc sợ nói trước công chúng.

Sợ nôn ở nơi công cộng là triệu chứng rất quan trọng, giúp  cho  chẩn  đoán  quyết định.

Những ám ảnh sợ xã hội phối hợp  với  tự  ti  và  sợ  bị  phê  bình có thể bộc lộ bằng những lời phàn nàn, bị đỏ mặt, run tay, buồn nôn hoặc mót đi tiểu. Các triệu chứng này có thể tiến triển thành cơn hoảng sợ,  né  tránh hoàn  toàn,  cách li  xã  hội.

Bệnh nhân ám ảnh sợ xã hội gần như luôn bộc lộ rối loạn lo âu trong các tình huống xã hội gây sợ như đánh trống  ngực,  run, vã  mồ  hôi, khó  chịu ở dạ dày và  ruột, ỉa chảy, căng trương lực cơ. Các trường hợp  nặng  có thể có các triệu chứng thoả mãn chẩn đoán cho cơn hoảng sợ kịch phát.  Đỏ  mặt  có  thể  là đặc trưng của ám ảnh sợ xã hội. Bệnh nhân thừa nhận rằng:  các  sợ  hãi  của họ  là vô  lí  và  quá mức. Ở người trên 18 tuổi, bệnh phải  kéo dài  trên 6 tháng mới  được chẩn đoán là ám ảnh sợ xã hội.

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo dsm-iv:

A. Sợ hãi với cường độ mạnh và bền vững của  một  hay  nhiều tình huống xã hội, trong đó bệnh nhân bộc lộ với người khác  sự sợ hãi  hoặc  sự phụ thuộc  vào người quen để giảm sợ hãi. Bệnh nhân sợ rằng sẽ phản ứng bằng cách xấu hổ hoặc thiếu tự tin.

Lưu ý: ở trẻ em có liên quan xã hội thích hợp với  những người trong gia đình hoặc xuất hiện trong các tình huống tương đương, không chỉ tác động qua lại với người lớn.

B. Biểu hiện trong tình huống xã hội gây ra lo âu, dưới hình thức một cơn  hoảng sợ kịch phát. Lưu ý: ở trẻ  em,  lo  âu  có  thể  biểu hiện sự kinh ngạc  trong tình huống xã hội với những người ngoài gia đình.

C. Bệnh nhân thừa nhận rằng sợ hãi là quá mức và không có lí do.

Lưu ý: ở trẻ em không có yếu tố này.

D. Các tình huống xã hội gây sợ hãi bị né tránh  hoặc  chịu  đựng  với  lo  âu hoặc sợ hãi mãnh liệt.

E. Sự né tránh lo âu hoặc sợ  hãi  trong tình huống xã hội gây ra sợ hãi, cản trở rõ rệt đến cuộc sống bình thường, hoạt động xã hội, nghề nghiệp do ám ảnh sợ.

F. Ở người trên 18 tuổi, bệnh kéo dài ít nhất 6 tháng.

G. Sợ hãi hoặc né tránh không phải là hậu quả  của một  chất  (lạm  dụng  ma  túy, thuốc hướng thần) hoặc một bệnh  thực  tổn mà không  phải  là  do  một  bệnh tâm thần khác như hoảng sợ có hoặc không có ám ảnh sợ khoảng trống.

H. Nếu biểu hiện một bệnh thực tổn hoặc một bệnh tâm thần, sợ hãi ở tiêu chuẩn A không liên quan đến các bệnh này.

Ám ảnh sợ biệt định:

Đặc điểm lâm sàng:

Đó là những ám  ảnh  sợ  khu  trú và  các  tình huống đặc  biệt như sợ gần động  vật, sợ độ  cao, sợ sấm, sợ bóng tối, sợ đi  máy  bay,  sợ nơi  kín,  sợ bị các bệnh  hiểm nghèo… Hoàn cảnh phát sinh bệnh rất kín đáo và có thể gây ra hoảng sợ.

Yếu tố ám ảnh sợ biệt định được xây dựng trên nền một sợ hãi mãnh liệt, bền vững và rõ rệt. Khi có các kích thích ám ảnh sợ sẽ dễ dàng gây ra đáp ứng lo âu.

Chẩn đoán chắc chắn nếu như né tránh sợ hãi  hoặc  lo  âu  trước đó của kích  thích ám ảnh sợ gây trở ngại rõ rệt đến cuộc sống hàng ngày, đến hoạt động nghề nghiệp và  xã hội. Ở bệnh  nhân  dưới  18  tuổi, các  triệu chứng cần bền vững ít nhất  là 6 tháng mới được chẩn đoán chắc chắn.

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo dsm-iv:

A. Sợ hãi với cường độ mạnh, bền vững, quá  mức  hoặc  không có cơ sở do sự có mặt hoặc đã từng có  mặt  một  sự vật  hoặc  một tình huống biệt định (ví  dụ: sợ  đi máy bay, sợ độ cao, sợ động vật, sợ tiêm thuốc, sợ nhìn thấy máu…).

B. Khi có kích thích ám ảnh sợ, thường  gây  ra phản  ứng  lo  âu  ngay lập tức các kích thích này  thể  hiện dưới  dạng  một  cơn hoảng sợ trong tình huống thuận  lợi.

Lưu ý: ở trẻ em lo  âu có  thể  biểu hiện là lời  than phiền,  kinh ngạc hoặc  giữ vật gì đó.

C. Bệnh nhân thừa nhận rằng sợ hãi là quá mức và không có lí do.

Lưu ý: ở trẻ em yếu tố này có thể không có.

D. Tình huống ám ảnh sợ hãi là rõ rệt hoặc có  sự  chịu đựng rối loạn lo âu  mãnh liệt.

E. Né tránh hoặc lo âu trước trong tình huống gây ra sợ hãi đã cản trở  rõ rệt đến cuộc sống bình thường, hoạt động xã hội, nghề nghiệp và học tập.

F. Ở bệnh nhân dưới 18 tuổi, bệnh kéo dài ít nhất 6 tháng.

G. Rối loạn lo âu hoặc cơn hoảng sợ  hoặc  né  tránh ám ảnh sợ phối  hợp với một sự vật hoặc tình huống biệt định không giải thích được do một bệnh tâm thần khác như rối loạn ám  ảnh-  cưỡng  bức  và  rối loạn stress sau sang chấn, rối loạn lo âu bị chia cắt, ám ảnh sợ xã hội, hoảng sợ có ám ảnh sợ khoảng trống, ám ảnh sợ khoảng trống không có tiền sử hoảng sợ.

Các thể lâm sàng ám ảnh sợ biệt định:

Sợ động vật: sợ rắn, sợ côn trùng,… nhìn chung thể này khởi phát ở trẻ em.

Sợ môi  trường thiên nhiên:  sợ bão,  sợ độ  cao, sợ nước,…thể  này  khởi  phát ở trẻ em.

Sợ máu, sợ tiêm, sợ vết thương.

Sợ tình huống: tham gia giao thông công cộng, qua cầu,  hầm, thang máy, đi máy bay, lái xe hoặc ở nơi khép kín,… hay khởi phát ở những lứa tuổi 20.

Rối loạn ám ảnh cưỡng bức:

Đặc điểm lâm sàng:

Yếu tố xác định rối loạn ám ảnh cưỡng bức là các ám ảnh hoặc cưỡng bức tái diễn. Bệnh nhân thừa nhận ám ảnh cưỡng bức  là  quá  mức  và không  giải  thích được. Các ám ảnh  và  cưỡng bức  phải  đủ tiêu chuẩn  và  đủ thời  gian  (từ 1 giờ đến 1 ngày). Rối loạn không phải là hậu quả của một chất hoặc một bệnh thực tổn.

Ám ảnh là ý nghĩ,  ý tưởng hoặc  sự tưởng tượng biểu hiện không chắc chắn và gây ra rối loạn lo âu hoặc mất chức năng rõ rệt. Nội dung của ám ảnh rất lạ lùng, không chịu sự kiểm soát của bản thân  bệnh  nhân  và  không  phải  là  ý  nghĩ  mà  bệnh nhân muốn có. Bệnh nhân có  đủ khả  năng  thừa  nhận  ám  ảnh  là  sản  phẩm của hoạt động tâm thần và không  phải  là  do  bị  ép buộc  từ bên ngoài, ý nghĩ  ám ảnh thường gặp là ý nghĩ lặp đi lặp lại như  sợ lây bệnh truyền nhiễm do bắt tay, ý  nghĩ nghi ngờ cửa không khoá…

Hành vi cưỡng bức là hành vi lặp đi lặp lại như  rửa tay,  cầu nguyện,  đếm các hàng gạch hoặc im lặng với mục đích  làm  giảm  bớt  lo  âu,  căng  thẳng  nhưng không tạo ra được một sự thoả mãn.

Ví dụ: bệnh nhân có ám ảnh về bị lây bệnh do  bắt  tay, có thể  giảm bớt  căng  thẳng bằng cách rửa tay nhiều lần đến khi da  nhăn  nheo  lại.  Bệnh nhân lo lắng do ám ảnh chưa khoá cửa có thể làm động tác kiểm tra lại  nhiều lần.  Người  lớn rối loạn ám ảnh cưỡng bức  có  một  vài  thời điểm nhận ra rằng ám ảnh cưỡng bức  là  quá mức và vô lí. Nhưng điều này không áp dụng  với  trẻ  con  vì  chúng  có  thể không nhận thức được đầy đủ.

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo dsm-iv:

A. Có ám ảnh hoặc hành vi cưỡng bức.

Ám ảnh được giải thích là:

Ý nghĩ tái diễn và bền vững, ép buộc hoặc tưởng tượng rằng đã được trải nghiệm tại một thời  điểm bị  ép buộc, không thực  tế  và  là nguyên  nhân  gây  ra lo âu và lo lắng.

Các ý nghĩ thôi thúc hoặc  tưởng tượng không  đơn giản  là lo  lắng  quá mức về các vấn đề thực tế.

Bệnh nhân có khả năng bỏ qua hoặc ngăn  chặn  các ý nghĩ  thôi thúc  hoặc dung hoà chúng bằng một số ý nghĩ hoặc hoạt động khác.

Người bệnh nhận ra rằng ý nghĩ ám ảnh là sản phẩm hoạt động trí tuệ  của chính họ chứ không bị áp đặt từ bên ngoài.

Hành vi cưỡng bức được giải thích là:

Hành vi lặp đi lặp lại  như  rửa tay,  cầu nguyện,  tính toán hoặc  nhắc  lại một số từ trong im lặng để đáp lại sự ám ảnh.

Các hành vi hoặc hoạt động tâm  thần  có  mục  đích làm giảm  sự khó  chịu của các sự kiện gây sợ hãi, hoặc ngăn chặn các sự kiện và  tình huống gây  sợ hãi.  Tuy nhiên các  hành  vi  hoặc  hoạt  động tâm thần này là không có cơ sở  thực tế và  rõ ràng là quá mức.

B. Người bệnh tại một thời điểm nào đó nhận ra ám ảnh hoặc hành vi cưỡng  bức là quá mức và vô lí.

Lưu ý: không áp dụng cho trẻ em.

C. Ám ảnh hoặc hành vi cưỡng bức gây ra khó  chịu  và  mất  thời  gian  (hơn một giờ mỗi ngày) cản trở hoạt động xã  hội,  nghề  nghiệp,  học  tập  và  các  mối quan hệ của bệnh nhân.

D. Nếu có các rối loạn khác thì nội dung của ám ảnh không bị giới hạn do các rối loạn như bận tâm về thức  ăn (trong rối loạn ăn uống)  hoặc  nhổ tóc (trong rối loạn nhổ tóc), hoặc bận tâm  về  thuốc  (trong rối  loạn do  một  chất), hoặc  bận tâm về bệnh tật nguy hiểm (trong rối  loạn  nghi  bệnh),  hoặc  bận tâm về tình dục  đồi trụy (trong loạn dục) hoặc ý nghĩ phạm tội, hiếm có rối loạn trầm cảm.

E. Rối loạn không phải là hậu quả của một bệnh thực tổn hoặc do  một chất  (lạm dụng ma túy hoặc chất hướng tâm thần).

Rối loạn lo âu lan toả:

Đặc  điểm lâm sàng:

Những nét chính của rối loạn lo  âu  lan toả là dai  dẳng,  không khu  trú, không nổi bật trong bất kì hoàn cảnh nào.  Rối  loạn lo  âu lan toả là lo âu quá mức  xảy ra vào ngày về một  sự kiện hoạt  động cho một giai  đoạn kéo dài  6 tháng. Bệnh nhân rất khó kiểm soát rối loạn lo âu của bản thân.

Rối loạn lo âu và lo lắng phối hợp với ít nhất  3 trong số  các triệu chứng thêm  vào là mất thư giãn, dễ  mệt  mỏi,  khó  tập trung chú ý,  cáu gắt,  tăng trương lực cơ và mất ngủ (ở trẻ em chỉ cần một triệu chứng).

Cường độ và tính chất của rối loạn lo âu là quá mức so với hoạt động bình  thường và so với mức độ gây khiếp sợ  của sự kiện. Bệnh nhân rất khó  dừng các ý nghĩ lo âu do tập trung chú ý bị cản trở.

Người lớn rối loạn lo âu lan  toả  thường  lo  lắng  về  sinh  hoạt  hàng  ngày  và thói quen cuộc sống như khả năng đáp ứng công  việc,  tài  chính,  sức  khoẻ  các thành viên trong gia đình  với  con cái hoặc các vấn  đề nhỏ  nhặt  khác. Ngược  lại,  trẻ em rối loạn lo âu lan toả có  xu  hướng lo  lắng quá mức  về  năng lực  của bản thân.

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo dsm – iv:

A. Lo âu và lo lắng quá mức xảy ra nhiều ngày, kéo dài  ít  nhất  6 tháng, tập  trung vào một số sự kiện hoặc hoạt động trong công việc và kết quả học tập.

B. Người bệnh khó kiểm soát được lo âu.

C. Lo âu và lo lắng được  phối  hợp với  ít nhất 3 trong số  6 tiêu chuẩn sau (với ít nhất là 6 tháng):

Mất thư giãn hoặc cảm giác kích động, bực bội.

Dễ bị mệt mỏi.

Khó tập trung chú ý hoặc trí nhớ trống rỗng.

Dễ cáu gắt.

Tăng trương lực cơ.

Rối loạn giấc ngủ (khó vào giấc ngủ, khó giữ giấc ngủ,  khó  chịu khi  thức giấc).

Lưu ý: ở trẻ em chỉ cần một triệu chứng.

D. Rối loạn lo âu không phải là rối loạn tâm thần khác như:  rối loạn hoảng sợ ám ảnh sợ xã hội, sợ bị lây bệnh, sợ phải  xa  nhà,  xa  người  thân,  giảm  cân,  có nhiều than phiền về cơ thể hoặc bệnh hiểm nghèo và không xảy ra trong rối loạn stress sau sang chấn.

E. Rối loạn lo âu và lo lắng hoặc triệu chứng cơ thể là nguyên nhân  dẫn  đến khó chịu hoặc thiệt thòi về hoạt động xã hội,  nghề  nghiệp  hoặc  các  chức  năng khác.

F. Rối loạn không phải là hậu quả của một chất (lạm dụng ma tuý hoặc thuốc hướng tâm thần) hoặc một  bệnh cơ thể  như  cường giáp và  không xảy ra trong khi  bị rối loạn cảm xúc, rối loạn tâm thần hoặc chậm phát triển tâm thần.

Rối loạn lo âu do bệnh thực tổn:

Đặc điểm lâm sàng:

Đặc điểm rối loạn lo âu do bệnh  thực  tổn là các triệu chứng lo âu do  hậu quả của bệnh thực tổn. Các triệu chứng biểu hiện bằng rối  loạn lo  âu  lan  toả,  cơn hoảng sợ kịch phát, rối loạn ám ảnh xung động.  Để  xác  định rối  loạn lo  âu  do  bệnh thực tổn, trước hết thầy thuốc phải  xác  định các  triệu chứng của bệnh thực  tổn, đồng thời cũng phải xác định các  triệu chứng  lo  âu  là  bệnh  sinh  liên quan trực tiếp đến bệnh thực tổn.

Các bệnh thực tổn có thể là nguyên nhân gây rối loạn lo  âu là bệnh nội  tiết,  bệnh tim mạch, rối loạn chuyển hoá và bệnh thần kinh.

Tiêu chuẩn  chẩn  đoán  theo dsm-iv:

Biểu hiện rối loạn lo âu, xung động hoảng sợ hoặc ám ảnh  –  xung động  chiếm ưu thế trong lâm sàng.

Có bằng chứng rõ rệt của bệnh thực tổn qua tiền sử, khám lâm sàng, xét nghiệm được coi là bệnh sinh của rối loạn lo âu.

Rối loạn không phải là một bệnh tâm thần khác.

Rối loạn không xảy ra trong quá trình tiến triển của sảng.

Rối loạn là nguyên nhân gây  ra biểu hiện khó  chịu hoặc  rối loạn chức năng xã hội, nghề nghiệp hoặc các chức năng khác.

Rối loạn lo âu do một chất:

Đặc điểm lâm sàng:

Đặc điểm rối loạn lo âu do một  chất  biệt  định là có  thể  xảy ra rối loạn lo âu lan toả, xung động hoảng sợ, ám  ảnh  –  xung  động  và không  do  một  bệnh  tâm thần khác. Chẩn đoán không được đặt  ra nếu  có  sảng;  các  triệu chứng khó  chịu ảnh hưởng tới chức năng xã hội,  nghề  nghiệp  hoặc  các  chức  năng  quan  trọng  khác.

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo dsm-iv:

A. Biểu hiện rối loạn lo âu, xung động hoảng sợ hoặc rối loạn ám ảnh- xung động chiếm ưu thế.

B. Các biểu hiện rõ rệt trong tiền sử, khám lâm sàng hoặc xét nghiệm (1) hoặc (2).

Các triệu chứng của tiêu chuẩn A phát triển trong vòng 1 tháng sau ngộ độc hoặc cai một chất .

Chất sử dụng là bệnh sinh của rối loạn lo âu.

C. Căn cứ vào triệu chứng khởi phát và kéo dài  trong một  thời  gian (1 tháng) khi sử dụng và sau khi có ngộ độc cấp tính một chất.

D.  Rối loạn không xảy ra trong quá trình sảng.

E. Rối loạn là nguyên nhân gây ra và các biểu hiện  khó  chịu  trong  các  lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp hoặc các chức năng khác.

Điều trị các rối loạn lo âu.

Nhóm benzodiazepine:

Tác động lên các thụ cảm thể GABA tạo ra tác dụng  chống rối  loạn lo  âu.  Thuốc có loại thời gian bán hủy khác nhau, từ 2 giờ với triazolam, đến 30 giờ với diazepam và 200 giờ với flurazepam. Thuốc có thể gây  ra  trạng  thái  phụ  thuộc thuốc xuất hiện sau một thời gian dùng thuốc từ vài tháng trở lên.

Các thuốc benzodiazepine thường dùng là: diazepam; clodiazepoxit; oxazepam;  alprazolam;   nitrazepam.  clonazepam; tranxen.

Thuốc chống trầm cảm 3 vòng và đa vòng:

Thuốc có hiệu quả tốt với  các  triệu chứng  lo  âu  lan  toả, ám  ảnh,  cơn hoảng sợ. Hiệu quả của thuốc thường xuất hiện sau 8 – 12 tuần.  Cần tăng liều từ từ, nên uống thuốc sau bữa ăn. Thời gian điều trị cần  kéo  dài,  tối  thiểu từ 18 – 24 tháng.  Để điều trị ám ảnh, liều thuốc điều trị tối ưu thường cao gấp 1 – 3 lần liều điều trị trầm cảm thông thường.

Các thuốc thường dùng là: doxepin;  amitriptilin;  prothiaden;  anafranil; ludiomil; mianserin.

Các thuốc chống trầm cảm mới:

Có tác dụng tốt trên các rối loạn ám ảnh và cơn hoảng sợ kịch phát, ám ảnh – cưỡng bức. Hiệu quả của thuốc xuất hiện sau 8 – 12  tuần dùng thuốc. Khi  dùng  thuốc phải tăng liều dần, nên uống thuốc sau bữa ăn để hạn chế  tác  dụng  dạ dày-  ruột (đầy bụng, buồn nôn, nôn…). Thời gian bán huỷ dài, chỉ  nên dùng 1  lần/  ngày, có thể pha vào nước hoa quả để hạn chế tác dụng phụ. Liều thuốc điều trị ám ảnh

phải cao hơn liều điều trị trầm cảm 1-3 lần.  Khi  đạt kết quả điều trị sử dụng liều duy trì bằng 1/3 – 1/2 liều tấn công. Thời gian điều trị kéo dài tối thiểu là 18 -24 tháng. Với rối loạn ám ảnh – xung động có thể phải điều trị kéo dài suốt đời.

Các thuốc thường dùng: fluvoxamin; fluoxetin; paroxetin; sertralin; venlafaxin; mirtazapin,…