Nội dung

Rối loạn tâm thần ở phụ nữ

Những rối loạn liên quan đến chu kì kinh nguyệt.

Khái niệm:

Những rối loạn liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt (CKKN) bao gồm hai  hội chứng, bệnh chủ yếu là hội chứng trước kinh nguyệt (Premenstrual  syndrome  – PMS) và Rối loạn loạn cảm trước kinh nguyệt (Premenstrual dysphoric disorder – PMDD).

Hội chứng trước kinh nguyệt (PMS) được đặc trưng bởi một nhóm các triệu chứng tái diễn có tính chu kỳ và xảy  ra ở giai đoạn hoàng thể của CKKN. Mặc  dù  hội chứng đã được thừa nhận rộng rãi  trong y học nhưng đặc trưng của hội chứng còn nhiều bàn luận và nguyên nhân còn chưa rõ ràng.

Rối loạn loạn cảm trước kinh nguyệt (PMDD) đã được xác định  trong  tiêu chuẩn chẩn đoán DSM – IV, nhưng gần đây mới được nhận biết đầy đủ hơn.

Các triệu chứng của hai trạng thái bệnh này chồng lấn nhau đáng kể nhưng ở PMDD, các triệu chứng nói chung nặng nề hơn, đặc biệt là về cảm xúc.

Năm 1987, DSM – III đã đưa vào tiêu chuẩn  cho  “Rối  loạn  loạn  cảm  pha hoàng thể muộn” và gợi ý cho phép nghiên cứu thêm về lĩnh vực này.

Năm 1994, DSM –  IV đã đưa ra định  nghĩa  chặt  chẽ cho PMDD được xem  như là “Rối loạn trầm cảm không biệt định khác”.

Trong thập kỉ qua đã có nhiều những nghiên cứu về chẩn đoán và  điều trị  rối  loạn này. Tuy nhiên, trong khi  có những tiến bộ  đáng kể  về  lĩnh vực  này thì  đến  nay sinh lí bệnh học về PMS và PMDD còn chưa sáng tỏ. Hiện nay người  ta chấp nhận rằng có 3 loại hội chứng: những  triệu chứng  trước  kinh nguyệt, hội chứng  trước kinh nguyệt (PMS) và rối  loạn trước  kinh  nguyệt  (PMDD).  Ba  hội  chứng này là biểu hiện của sự liên tục trong chẩn đoán:

Triệu chứng trước kinh nguyệt

PMS                                                                                  PMDD

Có  triệu chứng nhẹ hơn                                                Có triệu chứng nặng hơn

Lâm sàng:

Những triệu chứng trước kinh nguyệt:

Hầu hết những người có CKKN đều đặn đều trải qua một  vài  mức  độ triệu chứng đi trước chu kỳ. Những triệu chứng này cũng được  biết  như  tiền triệu của chu kỳ và nó bao  gồm  nhiều  loại  triệu chứng  nhẹ,  thường  là  những  triệu chứng về cơ thể.

Thực tế có hơn 100 triệu chứng về cơ  thể, hành vi  và  cảm xúc  và  nó  có thể  biểu lộ ở cuối pha hoàng thể của chu kỳ.

Yếu tố quan trọng để phân biệt giữa những triệu chứng trước kinh nguyệt với  PMS và PMDD là những triệu chứng này không  ảnh  hưởng  đến chức  năng hàng ngày của người phụ nữ, kể cả ở  nhà  cũng  như  ở  nơi  làm  việc  và  nó  được  xem như dấu hiệu bình thường của một chu kỳ rụng trứng.

Những triệu chứng trước kinh nguyệt bao gồm:

Những triệu chứng về cơ thể:  đau đầu,  đau nửa  đầu; đau lưng;  tức,  ép ở  bụng; lên cân; vú căng và đau;  nóng  bừng  ở  da; mệt  mỏi  và  khó  chịu toàn thân; tiêu chảy hoặc táo bón; mạch nhanh;  nôn,  mất  cảm  giác  ăn  ngon;  thay  đổi  da, mụn trứng cá; phù ở mắt cá, bàn chân, tay; co thắt cơ; rối loạn giấc ngủ.

Những triệu chứng về hành vi: thèm ăn;  giảm  hứng  thú  với  hoạt  động  thường ngày; muốn ở một mình; tập trung kém;  vụng  về;  khó  khăn  trong  quyết định; tư duy chậm, mập mờ; đánh giá, suy xét kém; tăng cảm giác ăn ngon miệng

Những triệu chứng về cảm xúc: cáu bẳn; buồn, trầm cảm; dễ khóc; lo âu, hồi hộp, cơn hoảng sợ; ý  nghĩ  khó  chịu; tăng  nhạy  cảm; giận  dữ, thịnh nộ, thù địch;  bối rối; dễ quên; tính tự trọng thấp; paranoia; mất ngủ

Hội chứng trước kinh nguyệt:

Hội chứng trước kinh nguyệt  (PMS)  thực  ra là hội  chứng khá  nghèo  nàn.  Nó có thể chỉ có một triệu chứng hoặc có thể kết hợp các triệu chứng về  cơ thể, cảm  xúc và hành vi. Sự suy giảm chức năng cũng  như  tiên lượng trong tương lai  của người có hội chứng này là không rõ ràng. Do vậy khái niệm thích hợp là xếp hội  chứng vào quá trình liên tục của những triệu chứng trước kinh nguyệt, PMS và PMDD, trong đó PMS là những triệu chứng  CKKN  đủ nặng để tác  động vào  một số khía cạnh đời sống và xảy ra 2 tuần trước CKKN.

Tỉ lệ PMS chưa được xác định chắc chắn, người ta cho rằng nó  chiếm từ 11% đến 32% phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ.

Tiêu chuẩn chẩn đoán PMS:

PMS là một triệu chứng hoặc một nhóm triệu chứng không đủ tiêu chuẩn cho chẩn đoán PMDD theo DSM – IV.

Theo ICD – 10, đòi hỏi chỉ cần có một triệu chứng chu kỳ và  không có  biểu  hiện rõ ràng về suy giảm chức năng trong tương lai. Những triệu chứng bao gồm  trong ICD – 10 là:

Không thoải mái về tâm lí mức độ nhẹ:

Lên cân.

Vú căng và đau.

Phù chân, tay.

Đau nhức.

Kém tập trung.

Rối loạn giấc ngủ.

Thay đổi cảm giác ăn ngon miệng. (Theo Hội sản phụ khoa Mỹ).

Những triệu chứng cảm xúc:

Trầm cảm.

Giận dữ.

Dễ kích thích.

Lo âu.

Bối rối.

Thoái lui xã hội.

Những triệu chứng cơ thể:

Vú căng và đau.

Căng tức ở bụng.

Đau đầu.

Phù đầu chi.

Chẩn đoán PMS khi bệnh nhân có ít nhất một trong các triệu chứng  nêu trên trong suốt 5 ngày kinh nguyệt trong 3 chu kỳ liên tiếp.

Những triệu chứng trên phải đảm bảo khi bệnh nhân không  dùng  bất  kỳ  hóa dược nào, chất nội tiết  nào  hoặc  sử dụng  rượu và  chất  gây  nghiện  khác.  Những  rối loạn chức năng có thể nhận thấy đòi hỏi phải có trong tối thiểu 2 CKKN.

Rối loạn loạn cảm trước kinh nguyệt:

Chẩn đoán PMDD đòi hỏi phải có tài  liệu bằng  chứng các  triệu chứng của ít nhất 2 chu kỳ liên tiếp, sự suy  giảm  chức  năng  hoạt  động sống hằng ngày  thể  hiện trong hầu hết các chu kỳ và có ít nhất  5  trong 11 triệu chứng, bao  gồm tối  thiểu một triệu chứng cảm xúc. Sự suy giảm chức năng có thể nặng.

Rối loạn này chiếm khoảng 4% phụ nữ có CKKN.

Tiêu chuẩn chẩn đoán PMDD theo DSM – IV:

Phải có ít nhất một trong các triệu chứng sau:

Dễ kích thích.

Không ổn định cảm xúc (đột nhiên dao động cảm xúc).

Cảm xúc trầm cảm hoặc tuyệt vọng.

Căng thẳng hoặc lo âu.

Kèm theo bất kỳ sự kết hợp các triệu chứng:

Giảm hứng thú trong các hoạt động.

Khó tập trung chú ý.

Giảm, mất năng lượng.

Thay đổi cảm giác ăn ngon miệng (thèm ăn).

Thay đổi giấc ngủ.

Cảm thấy mất kiểm soát hoặc sự ngập lụt.

Những triệu chứng khác như phù, vú căng và đau.

5 trong các triệu chứng nêu trên phải xảy ra trong suốt một  tuần trước kinh nguyệt và giảm đi vài ngày sau ngày có kinh.

Các triệu chứng can thiệp rõ ràng vào các  hoạt  động  hoặc  các  mối  quan hệ hàng ngày ở nơi làm việc hoặc nhà trường. Đồng thời các  triệu chứng trên cũng không phải đơn thuần là sự trầm trọng thêm lên của các rối loạn khác.

Sự trầm trọng thêm trước kinh nguyệt:

Thực tế một số bệnh nội khoa có thể trở nên tăng hoạt động hoặc  xấu đi trong thời gian trước kinh  nguyệt.  Thường xuyên  nhất là các rối loạn  trầm  cảm, migraine, hội chứng kích thích ruột, cơn  co  giật  ĐK,  hen  phế  quản,  hội  chứng suy nhược mạn tính và dị ứng.

Chẩn đoán phân biệt:

Chẩn đoán PMS và PMDD thực tế rất khó.  Một  phần  vì  tiêu chuẩn chẩn đoán rất thay đổi, một phần phải  phân  biệt  với  rất  nhiều bệnh,  trạng thái  bệnh  và  các rối loạn về cơ thể và tâm thần khác.

Để chẩn đoán, người ta dùng những bộ bảng  câu hỏi  để  theo  dõi  hàng  ngày như:

COPE: Calendar of Premenstrual Experiences.

DRF: Daili Rating Form.

MDQ: Menstrual Distress Questionnaire.

PMSD: Premenstrual Symptom Diary.

Người ta yêu cầu phải theo dõi hàng ngày  trong 2  tháng  hoặc  tốt  hơn  là 3  tháng liên tục.

Điều trị:

Các phương pháp điều trị thời gian đầu, rối loạn nhẹ:

Thay  đổi kiểu sống –  làm giảm  stress, trợ giúp xã hội, thay đổi chế  độ  ăn,  ăn kiêng, luyện tập thể dục thể thao.

Dùng calcium carbonate.

Rèn luyện tự sinh.

Liệu pháp tâm lí nhận thức hành vi.

L – tryptophan trước chu kỳ.

Thuốc chống viêm nonsteroid.

Vitamin B6; magnesium.

Điều trị các rối loạn nặng của pmdd:

Thuốc hệ serotonergic: fluoxetin; sertraline; citalopram; paroxetine; venlafaxine; clomipramine

Thuốc giải lo âu: alprazolam; buspirone;

Hormone: estradiol transdermal; danazol; GnRH; thuốc tránh thai.

Spironolactone.

Tâm thần phân liệt ở phụ nữ.

Chẩn đoán tâm thần phân liệt ở phụ nữ:

Theo tiêu chuẩn chẩn đoán DSM –  IV,  hệ  thống các  triệu chứng chuyên biệt cần thể hiện ít nhất 1 tháng. Thêm vào đó phải  có bằng chứng là các  triệu chứng  đang can thiệp vào khả năng thực hiện các chức năng của bệnh nhân.

Các triệu chứng:

Các triệu chứng được nhóm lại trong hai loại chủ yếu:

Những hoang tưởng:

Hoang tưởng là những niềm tin không đúng sự  thật,  dựa  trên nhận  thức  sai hoặc đôi khi qua trải nghiệm thực tế mà người bệnh giải thích sai.

Hoang tưởng ở nữ giới ít mang  tính  kỳ  dị  hơn nam  giới, nhưng thể  hiện bận tâm về cơ thể nhiều hơn, mang tính xung động  bản  năng  tình  dục  nhiều  hơn. Hoang tưởng ở nữ giới ít bận tâm về  chính trị, nhưng  lại  bận  tâm  nhiều về  tinh thần, tôn giáo. Nữ giới ít hoang tưởng bị hại và về  đồng  tính luyến  ái,  ít hoang tưởng liên quan đến quyền lực và địa vị cá nhân, nhưng  họ  lại  có  nhiều hơn nam giới về hoang tưởng có thai và hoang tưởng ghen tuông.

Với những đặc điểm trên, hoang tưởng ở phụ nữ có  thể  dễ  dàng  khiến thầy thuốc thông cảm và bỏ sót trong phát hiện bệnh.

Những ảo giác:

Phụ nữ mắc TTPL có tỉ lệ  ảo  giác  thính giác  cao  hơn  nam  giới.  Những  ảo giác thị giác, khứu giác, vị giác và xúc giác ít phổ biến hơn.

Ngoài ra, bệnh nhân cũng có những biểu hiện khác:

Ngôn ngữ mất tổ chức khiến không thể hiểu nổi.

Hành vi cực kỳ rối loạn.

Nhóm triệu chứng âm tính: như  vô  cảm,  biệt  lập  với  xã  hội  và  thiếu màu sắc cảm xúc.

Những khác biệt giới tính:

Áp dụng tiêu chuẩn DSM –  IV chẩn đoán TTPL  cho  nữ  khó  hơn nam  với  một số lí do sau:

Nhóm triệu chứng âm tính như vô  cảm,  biệt  lập với  xã hội, thiếu màu sắc hoặc cùn mòn cảm xúc,… biểu hiện ở nữ ít thường xuyên hơn ở nam.

Đặc biệt trong lĩnh vực giao  tiếp liên cá nhân,  phụ  nữ  thường  có  thể  thể hiện chức năng giao tiếp tốt mặc dù đã có các triệu chứng TTPL nặng.

Nói chung, phụ nữ thiên về không ổn định cảm xúc hơn nam giới, điều này khiến cho khó phân biệt với rối loạn cảm xúc cũng như có thể bỏ  sót chẩn đoán  TTPL mà chẩn đoán sang rối loạn cảm xúc.

Những triệu chứng loạn thần  xuất  hiện ở  bệnh  nhân  nữ  lúc  ban  đầu luôn  duy trì một thời gian ít hơn một  tháng  theo  điều kiện chẩn đoán bệnh.  Điều này cũng khiến dễ bỏ sót trong chẩn đoán.

Với những tính chất giới tính riêng biệt trên,  đa số  bệnh  nhân nữ cuối cùng được chẩn đoán là TTPL thì chẩn đoán ban đầu thường là: trầm cảm, rối loạn lưỡng cực, loạn thần ngắn hoặc cấp,  rối  loạn  ăn  uống  (khi  có  hoang  tưởng  về thức ăn và ảo giác được  quy  cho  là đói), và  rối  loạn nhân cách ranh giới. Đôi khi các triệu chứng loạn thần cũng được  chẩn  đoán là trạng thái rối loạn thích ứng xã hội sau hội chứng stress sau chấn thương.

Điều trị:

Nguyên tắc điều trị:

Xây dựng sự kết hợp, hợp tác điều trị  với  bệnh  nhân.  Đây  là điều cốt lõi trong nguyên tắc điều trị vì trở ngại đầu tiên trong quản lí bệnh nhân TTPL là sự không hợp tác điều trị.

Đề nghị sự hợp tác của gia đình trong điều trị bệnh nhân.

Bắt đầu dùng thuốc chống loạn thần. Có thể dùng một trong các loại sau: olanzapine, zinprasidone, risperidone, quetiapine.

Giảm đến mức tối thiểu tác dụng phụ và khuyến khích bệnh nhân luyện tập chống lại bất kỳ khả năng lên cân nào.

Điều trị tâm lí xã hội toàn diện.

Khác biệt giới tính trong điều trị:

Thiết lập sự hợp tác điều trị với bệnh nhân nữ thực ra dễ hơn với  bệnh nhân nam. Việc thuyết phục bệnh nhân nữ uống thuốc dễ hơn bởi vì  ở  bệnh  nhân  nữ thường kèm theo các triệu chứng cơ thể  như  đau, nhức  đầu hoặc  mất  ngủ và  các vấn đề về cảm xúc như trầm cảm hoặc lo  âu.  Chính vì  vậy  bệnh nhân nữ thường muốn được uống thuốc để giải quyết các đòi hỏi do các triệu chứng nêu trên.

Mặt khác, bệnh nhân nữ thường bị  tác  dụng phụ của thuốc  an thần kinh nhiều  hơn nam giới. Đó là do một số nguyên nhân:

Bệnh nhân nữ thường có thể được bác sĩ cho  liều thuốc  theo  cân nặng của nam giới, đó là liều quá cao với nữ.

Thuốc chống loạn thần được hấp  thụ  bởi  mỡ  và  lưu lại  thời gian dài  ở các mô mỡ. Nữ giới có khuynh hướng  có  nhiều mô  mỡ  hơn nam  giới, do đó thuốc  tích lũy ở cơ thể nữ lâu hơn  và  ở  mọi thời gian. Vấn đề tích lũy thuốc là nan giải, đặc biệt với thuốc hoạt động dài, thải trừ chậm.

Bệnh nhân nữ thường dùng kèm nhiều thuốc khác hơn nam như thuốc  tránh thai, thuốc ổn định khí sắc, thuốc chống trầm cảm, thuốc an dịu, giải lo âu, giảm đau, chống viêm và kháng histamine,… Những thuốc  chống  loạn  thần  có  thể tương tác với các thuốc trên.

Để giảm tối thiểu tác dụng phụ cần chú ý:

Liều thuốc cho bệnh nhân bắt đầu ở liều thấp, tăng dần tới hiệu quả điều trị.

Nếu tác dụng phụ xấu hơn,  nên uống  cách quãng hai  hoặc  ba  ngày  có  thể vẫn duy trì được hiệu quả điều trị.

Nếu bệnh nhân ngủ lơ mơ vào buổi sáng, có thể  uống thuốc  vào  bữa ăn tối thay vì uống vào lúc đi ngủ.

Khuyến khích bệnh nhân ăn chế độ kiêng và luyện tập  thường  xuyên  để chống lên cân.