Một số vấn đề chung.
Khái niệm stress:
Do không có từ tương thích trong tiếng Việt nên thuật ngữ stress được sử dụng theo từ gốc nước ngoài.
Lúc đầu thuật ngữ stress được sử dụng trong Vật lí học, để chỉ sức nén mà một loại vật liệu phải chịu đựng. Đến năm 1914, Walter Cannon đã sử dụng thuật ngữ này trong Sinh lí học, để chỉ các stress cảm xúc. Năm 1935, Ông đi sâu nghiên cứu sự cân bằng nội môi ở những động vật có vú khi chúng lâm vào các tình huống khó khăn, như khi gặp phải sự thay đổi về nhiệt độ. Ông cũng mô tả các nhân tố cảm xúc trong quá trình phát sinh, phát triển một số bệnh và xác định vai trò của hệ thần kinh khi cơ thể đối phó với các tình huống khẩn cấp.
Trong Y học, từ lâu người ta đã đặt vấn đề là tại sao một số người mắc các bệnh khác nhau lại có những triệu chứng giống nhau. Nhiều tác giả đã mô tả các triệu chứng loét dạ dày, ruột ở những người bị bỏng ngoài da (Svon, 1823; Kerling, 1842) và ở những người bệnh sau một phẫu thuật lớn bị nhiễm trùng (Billrot). Viện Pastuer Rom và viện Yersen đã mô tả tuyến thượng thận của chuột lang bị tăng trưởng và xuất huyết khi bị nhiễm bệnh bạch hầu…
Những nguyên nhân gây ra hiện tượng stress có thể rất khác nhau, nhưng phản ứng của cơ thể đối với chúng thì đều giống nhau. Tất cả các phản ứng này đều diễn ra theo ba giai đoạn:
Giai đoạn đầu: con người cảm thấy có khó khăn.
Giai đoạn hai: con người thích nghi với những khó khăn.
Giai đoạn ba: giai đoạn cuối cùng, con người không chịu đựng được nữa.
Ba giai đoạn này giống như một qui luật chung điều hòa hành vi của mọi sinh vật khi bị rơi vào những điều kiện đặc biệt căng thẳng và giống như tiến trình của một phản ứng thích nghi không đặc hiệu của cơ thể đối với những tác động mạnh mẽ, đột ngột khác nhau của môi trường.
Hans Selye (nhà nghiên cứu người Canada) là người đầu tiên nêu ra một khái niệm stress hiện đại. Năm 1936, Ông đã chiết từ dịch tiết của buồng trứng động vật có sừng một loại hormon và đem tiêm nó cho chuột. Sau khi tiêm một thời gian, chuột có những biểu hiện như:
Vỏ tuyến thượng thận tăng trưởng mạnh và chứa một lượng không lớn các hạt lipit bài tiết.
Tuyến ức, các hạch lympho và các cấu trúc chứa lympho bị teo nhỏ lại (involution).
Thành dạ dày, tá tràng, ruột của chuột bị loét và chảy máu.
Những thí nghiệm khác đã cho thấy các chất chiết từ tuyến thượng thận, tuyến tụy và một số chất độc cũng có thể gây ra những biến đổi tương tự như trên.
Lúc đầu, những biến đổi này được gọi là “triệu chứng được gây ra bởi các tác nhân khác nhau”. Về sau, được đổi thành “ triệu chứng thích ứng chung”, hay còn gọi là “triệu chứng stress sinh học”. Ba biến đổi trên đã trở thành ba chỉ số quan trọng của stress và là cơ sở để phát triển một khái niệm đầy đủ về stress.
Stress tâm lí:
Nhìn chung có thể chia stress thành 2 loại chính:
Stress sinh lí: là toàn bộ những biến đổi về sinh lí, trạng thái sinh lí của cơ thể nhằm đáp lại tác nhân gây stress, ví dụ những biến đổi về nhịp tim, nhịp thở, các thay đổi về nội tiết…
Stress tâm lí: trạng thái tâm lí xuất hiện nhằm đáp ứng với tác nhân gây stress. Ví dụ: những thay đổi về trí nhớ, tập trung chú ý, các phản ứng cảm xúc…
Dưới góc độ Tâm lí học, stress tâm lí là một trạng thái đặc biệt của cảm xúc. Trong trường hợp stress kéo dài, cường độ thấp, nó có thể được xem như là một trong những biểu hiện của tâm trạng. Ngược lại, nếu stress diễn ra đột ngột, trong một khoảng thời gian ngắn thì nó lại là sự thể hiện của xúc động.
Các hiện tượng tâm lí vốn không tách rời nhau, trong đó trạng thái tâm lí luôn làm nền cho các quá trình tâm lí. Do vậy, những quá trình tâm lí diễn ra trên nền của stress đều chịu sự chi phối của stress. Ở mức độ tối ưu, stress đảm bảo cho các quá trình tâm lí, đặc biệt là các quá trình nhận thức đạt được hiệu quả cao. Ngược lại, trong trạng thái mệt mỏi suy kiệt, hiệu quả của các quá trình tâm lí không những bị giảm sút mà toàn bộ nhân cách cũng bị ảnh hưởng. Đó chính là những trường hợp rối loạn stress hoặc distress.
Lẽ đương nhiên bất kì một hiện tượng tâm lí nào cũng đều xuất hiện trên cơ sở các quá trình sinh lí. Chính vì vậy stress tâm lí không thể tách rời với stress sinh lí. Tuy thế, với tư cách là một lĩnh vực khoa học về các hiện tượng tâm lí, Tâm lí học quan tâm và nghiên cứu stress tâm lí nhiều hơn.
Trong thực tế, stress là thuật ngữ đôi khi dùng để chỉ một nguyên nhân, một tác nhân gây ra phản ứng stress (như tiếng ồn của thành phố, cái nắng nóng của sa mạc, bệnh tật, sự thay đổi chỗ ở, việc làm…), hoặc đôi khi dùng để chỉ hậu quả của những tác nhân gây kích thích mạnh (như sự hốt hoảng khi gặp thiên tai nặng nề; sự cô quạnh khi sống lâu ngoài đại dương; sự căng thẳng khi gặp những khó khăn trong công việc…). Những yếu tố đóng vai trò nguyên nhân gây ra stress thường được gọi là các yếu tố gây stress hoặc các stressor. Do vậy không nên nhầm lẫn giữa stress (trạng thái tâm – sinh lí bên trong) với các tác nhân gây stress (các yếu tố bên ngoài).
Trong điều kiện bình thường, stress là một đáp ứng thích nghi về mặt tâm lí và sinh lí. Stress đặt chủ thể vào quá trình dàn xếp thích ứng, tạo ra một cân bằng mới cho cơ thể sau khi chịu những tác động của môi trường. Nói cách khác, phản ứng stress bình thường đã góp phần làm cho cơ thể thích nghi.
Nếu đáp ứng của cá nhân với các yếu tố gây stress không đầy đủ, không thích hợp và cơ thể không tạo ra được một cân bằng mới thì những chức năng của cơ thể ít nhiều sẽ bị rối loạn, những dấu hiệu bệnh lí cơ thể, tâm lí, hành vi sẽ xuất hiện và sẽ tạo ra những stress bệnh lí cấp tính hoặc kéo dài.
Nhiều người cho rằng, stress là một chứng bệnh gắn liền với nền văn minh hiện đại, bị chi phối bởi sự cạnh tranh và những mối nguy hại.
Các giai đoạn của phản ứng stress.
Theo H. Selye, phản ứng stress được chia thành 3 giai đoạn: giai đoạn báo động, giai đoạn thích nghi và giai đoạn suy kiệt.
Giai đoạn báo động:
Giai đoạn này được biểu hiện bằng những biến đổi đặc trưng của chủ thể khi tiếp xúc với các yếu tố gây stress. Những biến đổi này là:
Các hoạt động tâm lí được kích thích, đặc biệt là tăng cường quá trình tập trung chú ý, ghi nhớ và tư duy…
Các phản ứng chức năng sinh lí của cơ thể được triển khai như tăng huyết áp, nhịp tim, nhịp thở và tăng trương lực cơ bắp…
Những thay đổi tâm lí – sinh lí – hành vi đã giúp con người đánh giá các tình huống stress và bước đầu đề ra chiến lược đáp ứng trước các tình huống đó. Giai đoạn báo động có thể diễn ra rất nhanh (vài phút) hoặc kéo dài vài giờ, vài ngày… Chủ thể có thể chết trong giai đoạn này, nếu yếu tố gây stress quá mạnh, tình huống stress quá phức tạp. Nếu tồn tại được thì các phản ứng ban đầu chuyển sang giai đoạn ổn định (hay còn gọi là giai đoạn thích nghi).
Giai đoạn thích nghi:
Trong giai đoạn này, mọi cơ chế thích ứng được động viên để cơ thể chống đỡ và điều hòa các rối loạn ban đầu. Sức đề kháng của cơ thể tăng lên, con người có thể làm chủ được tình huống stress, lập lại các trạng thái cân bằng nội môi (homeostase) và tạo ra sự cân bằng mới với môi trường. Giai đoạn này còn được gọi là giai đoạn chống đỡ.
Trong một tình huống stress bình thường, chủ thể đáp ứng lại bằng hai giai đoạn báo động và chống đỡ.
Nếu giai đoạn chống đỡ tiến triển tốt thì các chức năng tâm, sinh lí cơ thể được phục hồi. Nếu khả năng thích ứng của cơ thể mất dần, thì quá trình phục hồi không xảy ra và chuyển sang giai đoạn suy kiệt.
Giai đoạn suy kiệt:
Phản ứng stress trở thành bệnh lí khi tình huống stress hoặc quá bất ngờ, dữ dội, hoặc ngược lại, quen thuộc nhưng lặp đi lặp lại, vượt quá khả năng dàn xếp của chủ thể.
Trong giai đoạn suy kiệt, các biến đổi tâm lí, sinh lí và hành vi của giai đoạn báo động xuất hiện trở lại, hoặc là cấp tính và tạm thời, hoặc là nhẹ hơn nhưng kéo dài. Có thể chia stress bệnh lí thành hai loại: stress bệnh lí cấp tính và stress bệnh lí kéo dài.
Stress bệnh lí cấp tính:
Những tình huống gây ra stress bệnh lí cấp tính thường là không lường trước được, mang tính chất dữ dội, như khi bị tấn công bất ngờ, khi gặp thảm họa…
Trạng thái này được chia thành hai loại theo diễn biến của các phản ứng cảm xúc cấp tính xảy ra tức thì hay chậm chạp.
Phản ứng cảm xúc cấp xảy ra nhanh:
Trong trạng thái này, chủ thể hưng phấn quá mức về mặt tâm thần và cơ thể:
Tăng trương lực cơ: nét mặt căng thẳng, các cử chỉ cứng ngắc, kèm theo cảm giác đau bên trong cơ thể.
Rối loạn thần kinh thực vật: nhịp tim nhanh, có cơn đau vùng trước tim, cao huyết áp, khó thở, ngất xỉu, chóng mặt giả, vã mồ hôi, nhức đầu, đau nhiều nơi, nhất là đau các cơ bắp.
Tăng quá mức phản ứng của các giác quan, nhất là tai. Người bệnh có cảm giác khó chịu cả với những tiếng động bình thường.
Rối loạn trí tuệ: kém khả năng tập trung suy nghĩ do nhớ lại các tình huống stress; trí nhớ về các sự kiện vẫn còn sâu sắc.
Tính tình dễ nổi cáu, bất an, kích động nhẹ; có thể có rối loạn hành vi và người bệnh gặp khó khăn khi giao tiếp với những người xung quanh.
Trạng thái lo âu, kèm theo nỗi sợ hãi mơ hồ.
Loại phản ứng stress cấp tính này kéo dài từ vài phút đến vài giờ, rồi mờ nhạt dần tùy theo tính chất và tiến triển của stress. Sự mờ nhạt càng rõ nét hơn khi có mặt người khác, làm chủ thể yên tâm và khuây khỏa.
Phản ứng cảm xúc cấp xảy ra chậm:
Các rối loạn xuất hiện chậm. Chủ thể có vẻ như chịu đựng được và chống đỡ lại tình huống gây stress. Người bệnh tự nhận thức được rằng, mình đã bị các tình huống stress xâm chiếm.
Cơ thể tiếp tục giai đoạn chống đỡ, nhưng chỉ tạo ra một cân bằng không bền vững, kéo dài trong vài giờ hoặc vài ngày. Sau đó đột nhiên xuất hiện một phản ứng stress cấp tính, diễn ra chậm. Biểu hiện và tiến triển của nó cũng giống như phản ứng cảm xúc cấp tính, diễn ra tức thì.
Điều này chứng tỏ chủ thể không còn khả năng dàn xếp với tình huống stress về mặt tâm lí, bị suy sụp và mất bù một cách chậm chạp.
Stress bệnh lí kéo dài:
Sự hình thành:
Stress bệnh lí kéo dài thường được hình thành từ các tình huống stress quen thuộc, lặp đi lặp lại như trong trường hợp người bệnh có những xung đột hoặc gặp những phiền nhiễu, không toại nguyện trong đời sống hàng ngày.
Đôi khi chúng được hình thành từ các tình huống stress bất ngờ và dữ dội (sau một phản ứng cấp, không thoái lui hoặc sau một loạt các phản ứng cấp thoáng qua).
Biểu hiện của stress bệnh lí kéo dài:
Biểu hiện của nó rất đa dạng và thay đổi tùy theo sự ưu thế về mặt tâm lí, cơ thể hay về mặt hành vi.
Các biểu hiện biến đổi tâm lí, tâm thần:
Chủ thể phản ứng quá mức với hoàn cảnh: dễ nổi cáu, có cảm giác khó chịu, căng thẳng về tâm lí, mệt mỏi về trí tuệ và không thư giãn được.
Rối loạn giấc ngủ: khó ngủ, hay thức giấc và không có cảm giác hồi phục sau khi ngủ.
Các rối loạn này tùy theo tính chất, hoàn cảnh và sự lặp lại của tình huống stress mà có thể tiến triển thành các triệu chứng sau đây:
Chủ thể chờ đợi stress một cách bi quan.
Có sự cảnh tỉnh một cách cao độ và luôn ở trong tình trạng nghe ngóng, căng thẳng nội tâm, dễ nổi cáu.
Có biểu hiện lo âu – ám ảnh sợ. Những lo âu – ám ảnh sợ này hình thành trên nền một sự lo âu dai dẳng và xuất hiện những cơn lo lắng về nơi đã xảy ra tình huống stress (ở nơi làm việc hay ở gia đình). Các rối loạn có khi mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác nhau như người bệnh sợ các phương tiện giao thông công cộng, sợ xung đột với cấp trên, với người thân, ngại giao tiếp, sợ bệnh tật…
Các biểu hiện về cơ thể:
Chủ thể thường có những rối loạn về thần kinh thực vật ở mức độ vừa. Những rối loạn này tăng lên khi chủ thể hồi tưởng về các tình huống stress mà mình đã phải chịu đựng.
Qua những lời than phiền của người bệnh, chúng ta thấy các rối loạn về tâm thần và chức năng cơ thể của họ như sau:
Người bệnh trong trạng thái suy nhược kéo dài.
Căng cơ bắp (chuột rút), run tay chân, đổ mồ hôi.
Nhức đầu, đau nửa đầu, đau cột sống kéo dài, dai dẳng.
Đánh trống ngực, đau vùng trước tim và huyết áp tăng không ổn định.
Có biểu hiện bệnh lí chức năng đại tràng và đau bàng quang (nước tiểu trong)…
Tất nhiên, không phải mọi stress bệnh lí kéo dài đều có tất cả những biểu hiện về cơ thể, về tâm lí như đã nêu ở trên. Song ngoài những triệu chứng trên, có khi chúng ta còn gặp những biểu hiện khác về cơ thể có liên quan với trạng thái lo âu.
Các biểu hiện về hành vi:
Tình huống stress có thể ức chế hoặc kích thích hành vi của người bệnh. Những rối loạn chức năng thích nghi của hành vi được biểu hiện trong các rối loạn hành vi.
Các rối loạn hành vi xảy ra do chủ thể có thái độ rút lui, tránh né các quan hệ xã hội; hoặc ngược lại, do những xung động mất kiềm chế, dẫn đến sự khó khăn trong giao tiếp của người bệnh. Có người thay đổi hẳn tính cách, làm cho người khác không nhận ra hoặc có những băn khoăn, suy nghĩ về nhân cách của họ.
Các rối loạn hành vi lúc đầu chỉ gây ra sự khó chịu, nhưng về sau nó phát triển và gây ra những tổn thất, làm trở ngại cho công việc của người bệnh.
Có người lúc đầu muốn dùng rượu, dùng thuốc để làm dịu những căng thẳng, lo âu, nhưng sau đó, do bản thân rượu và thuốc lại là chất gây lo âu, nên bắt buộc họ phải tăng dần liều sử dụng. Hành vi cứ như vậy lặp đi lặp lại và tăng dần, đưa chủ thể vào một vòng xoắn đáng sợ của sự nghiện rượu, nghiện thuốc. Những rối loạn hành vi nghiện này không thể không ảnh hưởng tai hại đến các quan hệ xã hội của chủ thể.
Stress và bệnh cơ thể.
Khái niệm chung:
Từ xa xưa người ta đã cho rằng tâm lí có một vai trò nhất định trong sự xuất hiện và phát triển bệnh. Tuy nhiên mãi đến giữa thế kỉ XX, những tư tưởng này mới được phát triển mạnh mẽ. Khởi đầu cho hướng mới này chính là S. Freud. Ông cho rằng các rối loạn cơ thể chỉ là sự thể hiện biểu trưng (Symbol) của những xung đột nội tâm bị đè nén, ức chế. Mặc dù S.Freud (1910) đã cự tuyệt việc tuyệt đối hoá vai trò ưu thế của tâm lí đối với cơ thể song điều này đã không ngăn cản được nhiều tác giả khác lí giải bệnh cơ thể theo Phân tâm. Họ cho rằng cũng như rối loạn tâm căn, tất cả các triệu chứng cơ thể chỉ là phương thức dung hoà để giải toả năng lượng Libido. Các dạng co giật của vận động cơ thể chỉ là sự né tránh căng thẳng của tính dục; các bệnh đường hô hấp là sự thể hiện quay trở lại thời kì nằm trong bụng mẹ, khi mà hệ hô hấp chưa hoạt động…
Trên cơ sở lí thuyết phân tâm, Alexander (1950) cho rằng các yếu tố tâm lí và cụ thể là sự xung đột tâm lí đóng vai trò quan trọng trong 7 bệnh thực thể: loét dạ dày – tá tràng; viêm đại tràng; ưu năng giáp; viêm ruột non cục bộ; cao huyết áp vô căn; viêm khớp dạng thấp và hen phế quản. Luận điểm về cơ chế bệnh tâm-thể của Alexander được nhiều người chú ý. Dunbar (1954) cho rằng: những người cùng bị một loại bệnh thường có cùng một kiểu (profile) nhân cách. Theo Bà, có 8 loại bệnh phụ thuộc nhiều vào yếu tố nhân cách hơn so với các bệnh khác, ví dụ như viêm khớp dạng thấp, tiểu đường, huyết áp cao, loạn nhịp tim …
Cho đến nay vẫn có nhiều nghiên cứu sử dụng tư tưởng của Dunbar về kiểu nhân cách làm cơ sở. Quan niệm hiện hành về kiểu nhân cách A và B là một ví dụ.
Engel (1954) đã phát triển chi tiết khái niệm căn nguyên đa yếu tố. Đến năm 1977 ông thiết lập mô hình tâm – sinh – xã hội (biopsychosocial) của bệnh. Theo quan điểm này, việc tìm kiếm và giải thích nguyên nhân của bệnh không nên thuần túy theo một yếu tố nào mà là sự kết hợp của các yếu tố về cơ thể, tâm lí và xã hội.
Stress và miễn dịch:
Hệ miễn dịch có chức năng bảo vệ cơ thể, chống lại sự tấn công của virus, vi khuẩn, vật kí sinh… hay các kháng nguyên nói chung. Cơ quan sản xuất các tế bào miễn dịch nằm rải rác khắp cơ thể: tuỷ xương, tuyến ức, hạch lymphô, lá lách, hạnh nhân và ruột thừa. Do nằm ở nhiều nơi như vậy nên không thể đánh giá được trực tiếp ảnh hưởng của thần kinh trung ương đến hệ miễn dịch mà người ta phải đánh giá một cách gián tiếp thông qua máu ngoại vi. Sự tuần hoàn giúp cho máu vận chuyển các thành tố miễn dịch từ các cơ quan của hệ miễn dịch đến các khu vực bị viêm nhiễm. Các thành tố của hệ miễn dịch tìm kiếm và chống lại, vô hiệu hoá các kháng nguyên ngoại lai. Chính vì vậy, máu ngoại vi đóng vai trò quan trọng trong quá trình miễn dịch, chống viêm nhiễm.
Như đã biết, có 2 loại xét nghiệm miễn dịch chính: xét nghiệm định lượng và xét nghiệm chức năng. Định lượng là nhằm xác định tỉ lệ các loại tế bào bạch cầu khác nhau ở máu ngoại vi. Các tế bào bạch cầu được quan tâm nhiều hơn từ góc độ miễn dịch gồm: neutro, mono, lympho, trong đó có cả thực bào, lympho T và B
Xét nghiệm định lượng có ý nghĩa quan trọng. Để có thể có được đáp ứng miễn dịch với kháng nguyên, cơ thể cần có một số lượng tối thiểu các tế bào bạch cầu và có sự cân bằng phù hợp giữa các loại tế bào bạch cầu. Sự tăng hay giảm số lượng tế bào là những chỉ báo về sự thay đổi trong hệ thống miễn dịch. Miễn dịch còn có thể được chia làm 2 loại: miễn dịch tế bào và miễn dịch nội tiết. Miễn dịch tế bào: các tế bào bạch cầu trực tiếp chống lại các kháng nguyên. Miễn dịch nội tiết: sản xuất ra các tế bào miễn dịch.
Trong cuộc sống của con người có rất nhiều sự kiện/biến cố vượt quá khả năng giải quyết của cá nhân. Khi đó xuất hiện stress, cụ thể đó là những trạng thái tiêu cực về cảm xúc, nhận thức. Stress làm thay đổi hoạt động của hệ thống miễn dịch và hệ quả của nó là làm thay đổi khả năng nhiễm bệnh theo hướng cá nhân dễ bị nhiễm bệnh hơn.
Một loạt những nghiên cứu của Glaser và CS. vào những năm 1980 cho thấy ảnh hưởng của các kì thi đến chức năng miễn dịch ở các sinh viên y khoa, cụ thể như giảm hoạt động của thực bào, giảm sản xuất tế bào lympho, giảm sản xuất gamma interferon…
Stone và CS. nghiên cứu vai trò tích cực/tiêu cực của các sự kiện đời sống đến miễn dịch nội tiết. Kết quả cho thấy những sự kiện dễ chịu kéo theo tăng tiết IgA (Immunoglobulin A) và ngược lại, những sự kiện khó chịu làm giảm tiết IgA. Việc tăng tiết IgA liên quan đến sự kiện dễ chịu kéo dài đến 2 ngày sau sự kiện. Điều này cho thấy những sự kiện vui vẻ, dễ chịu cũng ảnh hưởng tốt đến sức khoẻ theo góc độ miễn dịch.
Ngoài ra cũng còn rất nhiều nghiên cứu khác về mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lí đến miễn dịch, ví dụ như ở những cư dân sống gần nơi vụ nổ nhà máy điện nguyên tử; những người chăm sóc bệnh nhân Alzheimer (Kiecolt-Glaser và CS., 1987; Irwin và CS., 1991; Esterling và CS., 1994).
Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy những người có hệ thần kinh giao cảm hoạt động mạnh (dễ tăng nhịp tim, huyết áp, các hormon giao cảm như epinephrine và norepinephrine) dễ có những thay đổi mạnh trong đáp ứng miễn dịch khi phải đối mặt với các tác nhân gây stress và ngược lại. Tuy nhiên sự liên quan giữa hoạt động của hệ thần kinh giao cảm và miễn dịch vẫn chỉ là sự tương quan mà chưa thể khẳng định được cái nào là nguyên nhân, cái nào là hệ quả.
Cũng có nhiều nghiên cứu đi theo hướng mối quan hệ giữa các yếu tố xã hội với miễn dịch. Những người cô đơn, sống li thân hoặc li dị, đáp ứng miễn dịch kém hơn, hoạt tính của thực bào bị giảm sút ( Kiecolt-Glaser và CS., 1984, 1985).
Một trong những ví dụ điển hình về cơ chế stress có thể làm cho cơ thể dễ bị bệnh, như đã đề cập ở trên, chính là mối quan hệ giữa stress và chức năng miễn dịch. Cả stress cấp và mạn tính đều ảnh hưởng đến hoạt động của hệ miễn dịch. Sự ức chế hệ thống miễn dịch do stress làm suy giảm khả năng chống chọi của cơ thể đối với những tác nhân gây bệnh hoặc phục hồi sau chấn thương. Các nhà nghiên cứu cũng đã xác định được sự suy giảm khả năng gia tăng bạch cầu khi có tác nhân gây bệnh (Fisher và CS, 1987; Bachen và CS, 1992; Zakowski và CS, 1994; Delahanty và CS, 1996). Suy giảm khả năng sản xuất bạch cầu được ghi nhận trong cả trường hợp có stress cấp tính hoặc mạn tính.
Các nhà nghiên cứu cũng đi sâu nghiên cứu ảnh hưởng của stress đối với thực bào- những bạch cầu hạt khổng lồ có chức năng tiêu diệt rất nhanh tế bào virut hoặc ung thư. Bằng các xét nghiệm cận lâm sàng (invitro) người ta cũng đã phát hiện thấy ở những người có stress kéo dài, các thực bào tự nhiễm giảm cả về số lượng và khả năng tiêu hủy tế bào ung thư (Schedlowski và CS, 1993; Delahanty và CS 1996).
Sự thay đổi trong hệ miễn dịch cũng liên quan đến hoạt động của hệ thần kinh giao cảm (ví dụ như tăng nhịp tim, tăng huyết áp, tăng tiết các catecholamine). Sự thay đổi các chỉ số của hệ miễn dịch, ví dụ như số lượng bạch cầu và khả năng của chúng tiêu diệt các tế bào khác liên quan đến kích thích tim mạch (đặc biệt là những thay đổi về huyết áp và nhịp tim). Ngược lại, những yếu tố tâm lý như khả năng kiểm soát bản thân, tính bất ngờ của tác nhân gây stress, sự hỗ trợ của xã hội và khả năng phản ứng/đáp ứng của cá nhân cũng có ảnh hưởng đến hệ miễn dịch. Nhìn chung các tác nhân gây stress bất ngờ hoặc không kiểm soát được hoặc những hoàn cảnh ít có sự trợ giúp xã hội gây ức chế miễn dịch nhiều hơn (Kennedy và CS, 1988; Barow và CS, 1990; Sieber và CS, 1992; Wiedenfeld và CS, 1990; Zakowski, 1995).
Bệnh truyền nhiễm được xem như là bệnh có tác nhân gây bệnh rõ rệt, ví dụ: virut, vi khuẩn… Bệnh có khả năng truyền từ người này sang người khác. Cơ chế phòng vệ ban đầu chính là hệ thống miễn dịch. Hệ thống này được huy động nhằm phá hủy, vô hiệu hoá các tác nhân gây bệnh. Do stress làm cho hệ thống miễn dịch có những lúc hoạt động bị yếu đi do đó khả năng chống đỡ của nó (hệ miễn dịch) đối với các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm cũng bị giảm đi. Các nghiên cứu thực nghiệm và tự nhiên đều cho thấy stress liên quan đến khả năng dễ bị mắc bệnh truyền nhiễm (Cohen & Williamson, 1991; McEwen &Stellar, 1993; Kiecolt và CS, 1995; Biodi và CS, 1997). Trong điều kiện tự nhiên, stress tăng càng làm cho dễ phát bệnh (Stone và CS, 1987; Kasl và cs, 1979; Rahe, 1972). Stress cũng làm cho các bệnh truyền nhiễm tiễm ẩn dễ phát bệnh hơn (Kiecolt và CS, 1987, 1988).
Các nghiên cứu tương quan cũng cho thấy những người có nhiều stress trong cuộc sống là những người dễ bị cảm lạnh (Stone và CS, 1992; Cohen và CS, 1998).
Stress và ung thư:
Mối quan hệ giữa stress với miễn dịch và ung thư phức tạp hơn nhiều so với mối quan hệ giữa stress và nhiễm khuẩn. Nếu bệnh nhiễm khuẩn thường khởi phát một cách cấp tính thì ngược lại ung thư mang tính chất kéo dài. Người ta vẫn chưa xác định được rõ vai trò của hệ miễn dịch trong việc kiểm soát sự đột biến trong quá trình khối u chuyển từ lành tính sang ác tính và sau đó sang di căn. Cũng có tác giả cho rằng có sự liên quan giữa trầm cảm và ung thư song cũng có tác giả phủ định điều đó (Hahl và CS, 1988, Kaplan và Reynolds, 1988; Costa và Metrae, 1989). Nhìn chung mới chỉ có những cứ liệu cho thấy tress liên quan đến tiến triển của ung thư và có khả năng liên quan đến cả cuộc sống cũng như yếu tố nhạy cảm chung, nguy cơ và chất lượng cuộc sống.
Stress và bệnh tim:
Có nhiều tác giả đề cập đến sự ảnh hưởng của stress đối với bệnh động mạch vành. Sự ảnh hưởng này chủ yếu diễn ra thông qua hệ thần kinh giao cảm. Stress làm tăng tiết epinephrine và norepinephrine dẫn đến tăng hoạt hoá của các thụ thể beta và alpha (Kamarck và Jennings, 1991; Markovitz và Mathews, 1991). Tăng hoạt hoá beta dẫn đến tăng nhịp tim, do đó tim phải co bóp nhiều hơn và huyết áp cũng tăng cao. Tăng hoạt hoá alpha làm co thành mạch (cả động mạch và tĩnh mạch) dẫn đến làm tăng cản trở ngoại vi nói chung và lưu thông máu quay trở lại tĩnh mạch nói chung. Những điều này đều dẫn đến một đích: tăng huyết áp (Guyton, 1991).
Stress cũng góp phần vào xơ vữa mạch máu và những quá trình khác thông qua cơ chế ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thần kinh giao cảm.
Ngoài những liên quan đến động mạch vành, stress tâm lý cũng có thể góp phần làm giảm việc cung cấp oxy cho tim, do đó góp phần hạ thấp ngưỡng thiếu máu cơ tim hoặc thúc đẩy loạn nhịp cấp thông qua hoạt hoá hệ thần kinh thực vật, làm tăng các cơn nhồi máu cơ tim. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy những biến cố stress cấp tính, ví dụ như phát biểu ở chỗ đông người, các tình huống gây tức giận có thể làm thay đổi điện tim và dẫn đến loạn nhịp hoặc nhồi máu cơ tim. Rối loạn loạn nhịp còn có thể liên quan đến trạng thái tâm lý chủ đạo của cá nhân. Ví dụ: các rối loạn trầm cảm lo âu, nhân cách typ A, rối loạn stress sau nhồi máu (Camerou, 1996; Frasure-Smith và CS, 1995; Moser và Dracup, 1996; Rosenman, 1996; Tennant, 1987).
Stress và tiểu đường:
Như trên đã đề cập, tất cả các hệ thống nội tiết, thần kinh đều đáp ứng với stress. Đối với người bị các rối loạn nội tiết, việc kiểm soát hormon là rất cần thiết. Một khi stress làm rối loạn sự kiểm soát đó thì các triệu chứng bệnh càng trở lên tồi tệ hơn do mất cân bằng hormon. Bên cạnh việc ảnh hưởng trực tiếp đến nồng độ hormon, stress cũng còn ảnh hưởng đến nhiều những yếu tố nguy cơ liên quan đến khởi phát bệnh, hoặc làm bệnh trầm trọng thêm, ví dụ như ăn kiêng, dùng ma tuý, thực hiện chế độ điều trị.
Một trong những rối loạn nội tiết thần kinh phổ biến là tiểu đường. Có 2 loại tiểu đường: typ I (phụ thuộc insulin) và typ II (không phụ thuộc insulin). Cả 2 typ này đều do lượng đường trong máu tăng cao, đều có các triệu chứng như mắt mờ, mệt mỏi không rõ nguyên nhân hay khát nước và đi tiểu nhiều.
Nguồn năng lượng ban đầu cho các tế bào cơ thể chính là glucoza. Tuy nhiên glucoza được dùng tại các tế bào phải thông qua tác động của một loại hormon đó là insulin.
Ở typ I, hệ thống miễn dịch tấn công vào các tế bào sản xuất insulin nằm ở tuyến tụy, làm giảm mức độ bài tiết insulin và giảm năng lượng glucoza được sử dụng ở các tế bào. Tiểu đường typ I thường khởi phát trước tuổi 40, trong đó khoảng 50% khởi phát trước tuổi 20 (Tracey Avà CS, 2001).
Ngược lại, tiểu đường typ II khởi phát muộn. Tiểu đường typ II phát triển một cách từ từ do các tế bào cơ thể kháng lại tác dụng của insulin dẫn đến giảm lượng glucoza thâm nhập vào tế bào.
Stress không trực tiếp gây tiểu đường, tuy nhiên nó có thể làm cho cá nhân dễ bị bệnh hơn. Ví dụ, trong trạng thái stress, các tế bào cơ thể cần nhiều năng lượng hơn. Với tiểu đường typ I, đòi hỏi như vậy có thể vượt quá khả năng của tuyến tuỵ, do vậy bệnh có thể khởi phát sớm hơn tương tự, đối với tiểu đường typ II, các hormon stress có thể chi phối đến việc sử dụng insulin. Do đó có thể nhận thấy stress đóng vai trò là một yếu tố nguy cơ đối với khởi phát tiểu đường cũng như có thể ảnh hưởng đến điều trị thông qua sự ảnh hưởng đến kiểm soát glucoza.
Các hành vi liên quan đến stress, ví dụ như ăn uống, sử dụng rượu, hút thuốc lá, ít hoạt động trí tuệ, quên uống thuốc… cũng ảnh hưởng đến việc tự chăm sóc và đây cũng là những nguy cơ gây tăng lượng glucoza trong máu.
Stress có thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc quản trị các triệu chứng bệnh. Như đã đề cập, stress có thể làm tăng lượng glucoza trong máu. Với tiểu đường typ I, cơ thể không sản xuất đủ lượng insulin cần thiết để xử lý lượng glucoza cao trong máu, còn trong typ II, do các tế bào có thể từ chối insulin nên lượng glucoza trong máu vẫn ở mức độ cao. Lượng glucoza cao trong máu dẫn đến nguy cơ nhiễm axit xetonic và hôn mê (Guyton, 1991).
Như vậy có thể thấy stress đóng vai trò rất quan trọng đối với sức khoẻ của con người. Nó ảnh hưởng đến khởi bệnh cũng như diễn biến và kết thúc (tốt hoặc xấu). Stress chính là khâu quan trọng giữa cơ thể/cá nhân với môi trường; kích thích con người chống lại hoặc né tránh các tác nhân gây stress.
Stress ảnh hưởng đến mọi hệ thống của cơ thể và thông qua các hệ thống này, stress ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người.