Khi bị bệnh, tâm lí người bệnh cũng bị thay đổi. Sự thay đổi tâm lí người bệnh thường diễn ra trên hai bình diện:
Bình diện thứ nhất: mối quan hệ tương hỗ giữa hiện tượng tâm lí với bệnh tật.
Bình diện thứ hai: mối quan hệ giữa tâm lí người bệnh và môi trường xung quanh (kể cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội).
Có thể phân định một cách tương đối: mối quan hệ giữa tâm lí người bệnh với bệnh tật là mối quan hệ bên trong và mối quan hệ giữa tâm lí người bệnh với môi trường là mối quan hệ bên ngoài của người bệnh.
Tâm lí người bệnh và bệnh tật.
Một số vấn đề chung:
Điều dễ dàng nhận thấy rằng một khi bị bệnh thì bản thân bệnh ảnh hưởng đến tâm lí của bệnh nhân. Tuy nhiên sự ảnh hưởng này được diễn ra trên các cấp độ khác nhau.
Cấp độ cơ thể:
Một khi có bộ phận hay cơ quan nào đó bị bệnh thì hoạt động chung của hệ thống đó cũng bị thay đổi. Đến lượt mình, hệ thần kinh cũng phải có sự điều chỉnh trong hoạt động của nó do ảnh hưởng của hệ thống bị bệnh. Sự điều chỉnh hoạt động của hệ thần kinh chính là cơ sở dẫn đến sự thay đổi tâm lí của bệnh nhân. Ví dụ: trong trạng thái mệt mỏi, hệ thần kinh trở nên nhạy cảm hơn đối với các kích thích từ bên ngoài. Tiếng người nói bình thường như mọi khi đã làm cho bệnh nhân cảm thấy to hơn, khó chịu hơn.
Cấp độ tâm lí:
Khi bị bệnh, tâm lí của bệnh nhân có các thay đổi nhất định. Trạng thái tâm lí thường gặp nhất là trạng thái lo âu. Tùy theo mức độ của bệnh và đặc biệt là các đặc điểm nhân cách của cá nhân, phản ứng lo âu của bệnh nhân biểu hiện rất khác nhau, từ thờ ơ coi thường bệnh tật cho đến phản ứng thái quá. Có những trường hợp thậm chí còn rơi vào trạng thái bệnh lí mặc dù có thể bệnh cơ thể không nặng. Bên cạnh đó, các hiện tượng tâm lí của con người lại có liên quan mật thiết với nhau. Trong trạng thái lo âu hoặc cảm xúc không ổn định, khả năng tư duy, trí nhớ và trí tuệ nói chung cũng đều bị ảnh hưởng.
Cấp độ xã hội:
Mỗi bệnh nhân không chỉ đơn thuần là một cơ thể bị bệnh. Trên bình diện xã hội, họ là chủ thể của các mối quan hệ và các hoạt động cá nhân, xã hội. Họ là thành viên của gia đình (với một số cương vị nhất định như cương vị người chồng và người cha), là thành viên của một nhóm xã hội nào đó (trong cơ sở lao động hoặc trong các tổ chức chính quyền, đoàn thể…). Một khi bị bệnh, các cương vị của họ ít nhiều cũng bị chi phối, bị ảnh hưởng. Thêm vào đó còn có thể là các ảnh hưởng đáng kể về kinh tế: tăng chi phí cho các hoạt động khám, chữa bệnh, giảm thu nhập do nghỉ việc. Tất cả những điều đó đều có ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lí bệnh nhân.
Sự kết hợp cả ba cấp độ đó càng làm cho những biến đổi tâm lí của bệnh nhân trở nên phức tạp hơn.
Tâm lí người bệnh ảnh hưởng trở lại bệnh tật đến mức nào là tùy thuộc vào đời sống tâm lí vốn có của người bệnh. Mỗi người bệnh có những thái độ khác nhau đối với bệnh tật. Có người cho bệnh tật là điều bất hạnh không thể tránh được, đành cam chịu, mặc cho bệnh tật hoành hành. Có người kiên quyết đấu tranh, khắc phục bệnh tật. Có người không sợ bệnh tật, không quan tâm tới bệnh tật. Có người sợ hãi, lo lắng vì bệnh tật. Đôi khi chúng ta gặp những người thích thú với bệnh tật, dùng bệnh tật để tô vẽ cho thế giới quan của mình. Bên cạnh những người giả vờ mắc bệnh, lại có người giả vờ như không bị bệnh tật… Thái độ đối với bệnh tật nói riêng và đời sống tâm lí của người bệnh nói chung ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động sinh lực bản thân trong phòng và chữa bệnh cũng như trong khắc phục hậu quả bệnh tật của người bệnh.
Những diễn biến bệnh tật và biến đổi tâm lí của người bệnh tác động lẫn nhau theo vòng tròn khép kín: bệnh ảnh hưởng đến tâm lí của bệnh nhân và ngược lại, tâm lí cũng ảnh hưởng đến diễn biến và kết cục của bệnh. Các yếu tố tâm lí có thể đóng vai trò là nguyên nhân (như trong một số trường hợp bệnh cơ thể tâm sinh), cũng có thể là hậu quả của bệnh (lo âu, trầm cảm..) hoặc là hiện tượng đi cùng. Khi thăm khám bệnh nhân tại một thời điểm nào đó, các yếu tố tâm lí có thể vừa là hậu quả song chúng lại vừa có thể ảnh hưởng tiếp tới diễn biến của bệnh (có thể làm xấu đi hoặc ngược lại, giúp bệnh nhân có thêm nghị lực đấu tranh chống lại bệnh tật).
Phản ứng điều trị nội trú:
Một số đặc điểm chung:
Với người trưởng thành, hầu như ai cũng đã có một vài lần nằm viện. Đối với một số người, việc nằm viện diễn ra thường xuyên. Tuy nhiên phần lớn ít khi phải nằm viện. Đối với họ, lần nhập viện đầu tiên chính là sự báo hiệu cho những thay đổi lớn.
Có rất nhiều thay đổi về mặt xã hội đối với mỗi cá nhân khi phải nhập viện. Trước hết họ “có” thêm một vai trò mới, vai trò hầu như không mấy ai mong muốn: bệnh nhân. Nằm viện kéo theo một loạt các hậu quả. Tự do bị hạn chế, không còn được ăn, uống, đọc sách, thức đêm tùy ý. Mặc dù biết là cần thiết song nhiều người vẫn cảm thấy ngần ngại khi phải cởi bỏ quần áo ngoài của mình để mặc bộ quần áo bệnh nhân. Nhiều người, đặc biệt là phụ nữ, cảm thấy không dễ chịu chút nào khi có tay người lạ đặt lên cơ thể mình.
Ở nhà, nếu buồn người ta có thể đi chơi, gọi điện thoại tán gẫu hay nghe nhạc. Trong bệnh viện, họ không được như vậy. Mặt khác việc thích nghi với chế độ, các qui định trong bệnh viện với nhiều người không thể diễn ra một cách nhanh chóng.
Có nhiều tác giả đã nghiên cứu những phản ứng tâm lý đối với nằm viện. Taylor (1979) nghiên cứu khá tỉ mỉ những phản ứng của bệnh nhân. Bà cảm thấy rằng giảm khả năng tự chủ và giải thể nhân cách (bệnh nhân cảm thấy mình không phải là mình nữa) là hai đặc điểm thường gặp ở bệnh nhân điều trị nội trú. Taylor cũng đã mô tả những đặc điểm mà theo nhân viên y tế, là bệnh nhân “tốt” họ là những người thụ động, không đòi hỏi và hợp tác. Những người này tuyệt đối nghe lời nhân viên, không bao giờ đưa ra câu hỏi hoặc một đề nghị nào. Ngược lại, đối với những “bệnh nhân kém”, đó là những người được Taylor mô tả là “hành động có chút nổi loạn”, dạng như đi lại nhiều, hút thuốc lá hay uống rượu, bia hoặc thỉnh thoảng đùa cợt với nhân viên. Họ là những người không tuân thủ hoàn toàn nội qui bệnh viện, hay đưa ra câu hỏi hoặc đòi hỏi về điều trị.
Mặc dù nhân viên y tế thường khuyến khích những hành vi “tốt” song Taylor cũng nêu ra những khả năng “bệnh nhân tốt” dẫn đến hồi phục kém. Điểm chủ yếu là do hạn chế tính tích cực của cá nhân. Do vậy những bệnh nhân “tốt” có thể dẫn đến tình trạng họ trở thành “nô lệ” của các chế độ điều trị (Goffman, 1961).
Bệnh nhân “kém” cũng không phải đã hay. Những đòi hỏi phải được chú ý, quan tâm, chấp hành nội qui không nghiêm dễ làm cho nhân viên y tế “lẫn lộn” giữa những phàn nàn quan trọng và không quan trọng. Tuy nhiên những người này cũng có lợi thế nhất định. Do vẫn “giữ lại” ít nhiều quyền tự chủ, khả năng kiểm soát cuộc sống cũng như cảm xúc nên những bệnh nhân này họ rất vui mừng khi được ra viện và nhanh chóng thích ứng với cuộc sống: Karmel (1972) cho thấy ở nhóm bệnh nhân được coi là “ngang bướng” hay gây nhiều “phiền hà” cho nhân viên y tế lại có tỷ lệ trầm cảm thấp hơn và tinh thần, khí thế cao hơn.
Ngôn ngữ bệnh viện cũng là một trong những thay đổi. Ngôn ngữ của nhân viên y tế, đặc biệt là những người có thâm niên trong nghề thường giống với ngôn ngữ của người lớn đối với trẻ nhỏ. Bệnh nhân được “mời” như ra lệnh đến chỗ bác sĩ, bị yêu cầu cởi áo, lên giường, xuống giường. Nhiều bệnh nhân cao tuổi nghe những lời nói như vậy cứ có cảm tưởng rằng mình là một đứa bé nghịch ngợm. Những cảm nhận khó chịu như vậy càng tăng lên khi họ lại phải nghe ngôn ngữ bất cẩn của các y tá, điều dưỡng viên.
Các dạng phản ứng với bệnh:
Khi bị bệnh, đặc biệt là khi phải vào điều trị nội trú, cá nhân đều có các phản ứng đối với bệnh cũng như đối với quá trình điều trị. Có thể phân chia ra 4 dạng phản ứng chính.
Trầm cảm – lo âu: có rất nhiều yếu tố trong bệnh viện có thể gây stress hoặc lo âu cho bệnh nhân. Các cứ liệu cho thấy những biểu hiện lo âu là khá phổ biến.
Kết quả những phỏng vấn của Wilson và Barnet (1976) cho thấy sự cách li gia đình, bạn bè, công việc là nguyên nhân chủ yếu gây lo âu ở người bệnh. Theo kết quả nghiên cứu của Johnston (1982), nhân viên điều dưỡng đánh giá quá cao sự chăm sóc y tế còn bệnh nhân lại lo lắng đến cuộc sống của họ sau khi ra viện. Trong nghiên cứu sau (Johnston, 1987) bà lại thông báo rằng lo lắng đến phẫu thuật là quan tâm số 1 của bệnh nhân.
Trầm cảm ở bệnh nhân cũng là đề tài được nhiều người quan tâm. Moffic và Paykel (1975) cho thấy có 24% số bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện đa khoa có biểu hiện của trầm cảm theo thang trầm cảm Beck (Beck Depression Inventory – BDI). Một số tác giả khác đưa ra tỉ lệ 33% số bệnh nhân nội trú bị trầm cảm. Cũng có những nghiên cứu cho thấy có sự liên quan giữa mức độ nặng của bệnh và mức độ nặng của trầm cảm. Tuy nhiên cũng có nghiên cứu cho rằng không có sự liên quan như vậy. Các tác giả cũng chưa tìm thấy mối tương quan giữa thời gian bị bệnh và mức độ trầm cảm.
Ám ảnh – nghi bệnh: bệnh luôn là nỗi ám ảnh của bệnh nhân. Trong đầu bệnh nhân luôn xuất hiện những câu hỏi mà mỗi khi có câu trả lời thì bệnh nhân lại cũng có cơ sở để đặt ra câu hỏi ngược lại. Ví dụ: bệnh nhân được chẩn đoán là viêm da song sau đó lại nghi ngờ mình có thể bị tiểu đường. Sự nghi ngờ như vậy là do có một người quen của bệnh nhân bị tiểu đường, lúc đầu cũng được chẩn đoán là viêm da nhưng điều trị mãi mà không khỏi. Sau khi được giải thích rằng bệnh tiểu đường còn có một số triệu chứng khác, ví dụ: hay khô miệng, uống nhiều nước, sút cân, bệnh nhân tự thấy mình có vẻ cũng hay khô miệng, uống nhiều nước và thường xuyên cân để theo dõi sự sút cân.
Phản ứng phân li: đối với người có dạng phản ứng này, bệnh tật dường như là “tai hoạ”. Bệnh nhân hay có các phản ứng: kêu, rên, hay phàn nàn rằng số mình khổ…Tuy nhiên những phản ứng như vậy chỉ diễn ra khi có mặt người khác như nhân viên y tế, người nhà hoặc người thân. Những người có nét tính cách phân li thường dễ có phản ứng phân li khi bị bệnh. Phản ứng này, về mặt vô thức, nhằm thu hút sự chú ý của người khác tới bản thân bệnh nhân.
Phản ứng phủ định bệnh. Đây là dạng phản ứng cũng thường hay gặp. Khi có những biểu hiện ban đầu của bệnh, họ thường né tránh sự thật. Ví dụ: khi có các triệu chứng ban đầu như đau nhiều, người nhanh mệt mỏi… họ có thể tìm ra những lí do khác nhau (trừ bệnh) để giải thích. Khi buộc phải đi khám và đã được chẩn đoán, họ cho rằng có thể họ không bị bệnh như bác sĩ chẩn đoán bởi “bác sĩ nhìn đâu cũng thấy vi trùng”. Trong trường hợp đã có các triệu chứng bệnh không thể bác bỏ được thì họ lại cho rằng mức độ của bệnh không nghiêm trọng như bác sĩ khẳng định.
Tâm lí và một số yếu tố chung của bệnh.
Yếu tố đau:
Đau là một cảm giác khó chịu song nó lại cần thiết cho cơ thể. Nếu chúng ta không có cảm giác đau, cơ thể của chúng ta có nguy cơ bị tổn thương nhiều hơn hoặc thậm chí dẫn đến việc chúng ta tự hủy hoại cơ thể của mình. Ví dụ: chẳng may chúng ta bị ngã rạn xương; nếu không có cảm giác đau, cứ đi lại, mang vác, chạy nhảy như bình thường thì nguy cơ chân bị gãy là rất rõ.
Dưới góc độ sinh lý học, các tín hiệu đau buộc cơ thể không được hoặc hạn chế huy động vùng bị tổn thương vào các hoạt động thông thường cho đến khi nào vùng tổn thương đó được phục hồi. Sinh lý học cũng không thể giải thích được mọi khía cạnh của đau. Ví dụ: với những trường hợp đau mạn tính, không có vùng cơ thể cụ thể nào bị tổn thương nhưng cảm giác đau cứ dai dẳng, kéo dài triền miên. Tuy nhiên cũng không hợp lí nếu quan niệm rằng đau hoàn toàn là do yếu tố tâm lí.
Có một số cách lí giải yếu tố tâm lí trong đau:
Phân tâm học: năm 1893, Breurer và Freud là hai bác sĩ tâm thần đã đưa ra những giải thích về đau không đặc hiệu (đau không liên quan đến những vấn đề về cơ thể). Họ cho rằng phần chìm của tảng băng chính là những xung đột tâm thần được chuyển đổi sang các vấn đề cơ thể và thành các triệu chứng cơ thể. Năm 1959, Engel đã phát triển những ý tưởng của Breurer và Freud khi cho rằng trải nghiệm của bệnh nhân đóng vai trò rất lớn trong những vấn đề lâm sàng. Cũng theo Ông, có người có “cơ địa đau” và trong trường hợp này yếu tố tâm lý đóng vai trò chủ yếu trong cảm giác đau dù cho có hay không có các kích thích từ bên ngoài. Với những người như vậy cứ hết đau chỗ này lại đến đau chỗ khác, sau những cảm giác đau này chính là mặc cảm tội lỗi (vô thức hoặc là ý thức), trầm cảm. Những người này, theo Engel, rất ít khi thành công trong cuộc sống. Như vậy đau gắn liền với những vấn đề của nhân cách.
Tiếp cận hành vi:
Fordyce và CS (1973) thì lại cho rằng: đau liên quan đến các yếu tố hành vi và môi trường hơn là nhân cách. Luận điểm này dựa trên lý thuyết của Skinner (1971) về hành vi được củng cố do kết quả.
Khi một bệnh nhân đến khám bệnh, họ kể với bác sĩ rằng họ bị đau và họ phải thể hiện đau như thế nào. Trong một chừng mực nhất định, những hành vi đau đớn cũng gây ấn tượng cho bác sĩ. Song những hành vi như vậy cũng có thể được củng cố bởi các hậu quả xã hội.
Củng cố dương tính: được sự quan tâm, chú ý, được cho thuốc, nghỉ ngơi.
Củng cố âm tính: sợ người khác coi thường hoặc chế diễu hay bị mất quyền lợi.
Sự khác biệt về văn hoá và giới: Melzack và Wall (1991) cho rằng: cảm giác đau thì giống nhau nhưng khả năng chịu đựng thì lại khác nhau. Thực ra ngay từ năm 1952, Zborowski đã chỉ ra rằng: thổ dân Mỹ thường ít thể hiện nỗi đau của mình ở chỗ đông người, họ chỉ thường gào thét lên (do đau) khi chỉ có một mình. Người Do Thái và người Italia thì ngược lại.
Liệu có sự khác biệt về khả năng chịu đau ở 2 giới? Câu trả lời cũng rất khác nhau. Có nghiên cứu thì cho rằng không có sự khác biệt, cũng có tác giả lại đưa ra nhận xét rằng phụ nữ chịu đau tốt hơn nam giới, đặc biệt là khả năng chịu đau của phụ nữ tăng lên sau khi họ có con. Có lẽ những đau đớn trong khi vượt cạn đã là đỉnh điểm đối với người phụ nữ.
Hiện nay người ta cũng đang tiếp tục nghiên cứu sự khác biệt giữa các nền văn hoá về khả năng chịu đau.
Những khía cạnh tâm lí của cái chết:
Khái niệm chung:
Càng đi về cuối cuộc đời, người ta càng buộc phải chứng kiến nhiều hơn cái chết của những người thân yêu, của bạn bè trước khi phải đối mặt với cái chết của chính mình. Trong thực hành y học, nhiều thầy thuốc phải chứng kiến cái chết của người bệnh và sự đau khổ của những người thân của họ. Cũng không ít trường hợp có sự bất đồng giữa người nhà với nhân viên y tế, khi những con người đang đau khổ đó cho rằng các thầy thuốc là những người “vô cảm”, chai sạn với cái chết của con người. Nếu phân loại, có thể tạm chia ra làm 3 loại cái chết:
Chết đột ngột: chết do cơn đột quị, do mất nhiều máu, do sốc phản vệ khi tiêm thuốc…
Chết từ từ: chết do bệnh AIDS, do ung thư, do bệnh nặng dần…
Chết do tuổi già.
Trong bệnh viện, thường gặp nhất là dạng đầu. Do đặc điểm văn hoá, người Việt Nam đều muốn được chết (khi cái chết đến gần) trong ngôi nhà của mình với sự có mặt của những người thân yêu. Trong bệnh viện, nhiều trường hợp khi tình trạng bệnh đã rất nặng, người nhà xin đón bệnh nhân về để lo liệu.
Các giai đoạn chết:
Không kể những trường hợp chết đột ngột, nhìn chung trên đường “đi đến” cái chết, con người thường trải qua các giai đoạn khác nhau. Kubler – Ross (1970), người đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu tâm lí về cái chết đã bắt tay vào những vấn đề này từ những năm 60 của thế kỉ 20. Qua phỏng vấn hơn 200 bệnh nhân trước khi chết, Bà đã đưa ra một mô hình gồm 5 giai đoạn như sau:
Giai đoạn I (từ chối): chối bỏ, sốc và không tin. Đó là những phản ứng đầu tiên khi bệnh nhân biết rằng mình đã ở vào giai đoạn cuối và cái chết đã cận kề với họ. Theo Kubler-Ross, một số người có những phản ứng này cho đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Giai đoạn II (tức giận/kích động): sau khi chối từ, bệnh nhân trở nên khó tính, hay đòi hỏi, gây khó khăn. Họ hay đưa ra những câu hỏi không có câu trả lời: tại sao lại là tôi phải chết?
Giai đoạn III (mặc cả): bệnh nhân muốn có nhiều thời gian hơn để trì hoãn cái chết.
Giai đoạn IV (trầm cảm): đây là dấu hiệu đầu tiên của sự chấp nhận mất mát, không thể tránh.
Giai đoạn V (chấp nhận buông xuôi, sẵn sàng cho cái chết): lúc này họ rất muốn có người thân bên cạnh. Giao tiếp ngôn ngữ thường là không cần thiết trong giai đoạn này.
Tuy nhiên mô hình này cũng bị phê phán rằng rất nhiều trường hợp không diễn ra tuần tự qua 5 giai đoạn như vậy, rằng trạng thái tâm lí của bệnh nhân có thể chuyển đột ngột từ giai đoạn này sang giai đoạn khác và có nhiều yếu tố ảnh hướng tới diễn biến của quá trình này như: tuổi, giới, dân tộc, xã hội, các đặc điểm nhân cách… (Butller và Lewis, 1982).
Sự đau buồn khi mất người thân:
Hầu như bất kì ai cũng cảm thấy đau khổ khi mất người thân. Theo Bowlby (1980), sự đâu khổ này có thể được chia thành 4 giai đoạn:
Giai đoạn I (sững sờ): quên hết mọi chuyện. Cảm giác ngột ngạt, khó thở.
Giai đoạn II (mong mỏi, khát khao): người còn sống cố gắng tìm kiếm người đã chết. Nhiều lúc họ không tin rằng người thân của họ đã chết và thậm chí những hình ảnh trong mơ làm cho họ có cảm giác rằng hình như họ vẫn còn gặp được người thân. Họ thường cảm thấy bất an, kích động, cảm giác tội lỗi, buồn rầu, khóc lóc, thương tiếc. Mất ngủ, kém ăn cũng là những hiện tượng thường gặp.
Giai đoạn III (tuyệt vọng): mất mát đã là sự thật buộc phải chấp nhận. Điều này lại dẫn đến trầm cảm, cảm giác trống trải, vô vọng, suy sụp và mất ngủ nhiều hơn.
Giai đoạn IV (phục hồi): mọi việc dần ổn định trở lại. Thỉnh thoảng ý nghĩ về người đã khuất có xuất hiện trở lại song không kéo dài và không chi phối nhiều đến hành vi, cảm xúc cá nhân.
Bowlby cũng nhấn mạnh đến tính linh hoạt của mô hình. Tuy nhiên nhiều nhà nghiên cứu vẫn khẳng định rằng sự đau khổ không hoàn toàn diễn ra theo cách đó.
Qua tổng hợp các nghiên cứu, Wortmann và Silver (1990) cho thấy có 4 dạng thể hiện đau khổ khác nhau:
Đau khổ kéo dài, triền miên.
Đau khổ xuất hiện một thời gian sau đó cá nhân ổn định trở lại.
Đau khổ xuất hiện muộn.
Đây là những trường hợp mà thoạt đầu dường như cá nhân không có phản ứng mạnh lắm. Tuy nhiên một thời gian sau khi người thân qua đời, cá nhân cảm nhận thấy những thiếu hụt, mất mát không gì bù đắp được. Trạng thái này rất lâu hồi phục.
Không có biểu hiện đau khổ.
Dù sao chăng nữa các thầy thuốc cũng phải lưu ý rằng khi có một bệnh nhân chết thì có nhiều người khác đau khổ, dù rằng ở các trạng thái, các mức độ và các hình thức biểu hiện có thể khác nhau.
Yếu tố văn hoá:
Khi có người thân qua đời, mọi người đều cảm thấy đau khổ. Tuy nhiên sự thể hiện cảm xúc này bị chi phối rất nhiều bởi yếu tố văn hoá. Ở nước ta, theo truyền thống văn hoá Phương Đông, người chết chỉ là người đi xa và người còn sống vẫn tuân theo một số cách thức duy trì quan hệ tình cảm với người đã khuất như: cúng 3 ngày, 49 ngày, 100 ngày, hàng năm, lập bàn thờ… Ngược lại, ở các nước Âu- Mĩ, người ta thường động viên gia chủ nhanh chóng quên đi đau khổ để trở về với công việc thường ngày.
Đặc điểm tâm lí người bệnh thực thể.
Đặc điểm tâm lí bệnh nhân nội khoa:
Biểu hiện thường gặp ở bệnh nhân nội khoa là các triệu chứng của trầm cảm. Bệnh nhân thường hay so sánh tình trạng hiện tại với “trước khi bị bệnh”. Do một số mặc cảm về bệnh nên có những bệnh nhân tự cách li mình với gia đình và xã hội. Cũng có người nôn nóng, muốn giải quyết ngay tình trạng bệnh, tìm mọi cách “giúp” thầy thuốc chẩn đoán và điều trị nhanh chóng nhất. Họ có thể tìm đến nhiều thầy thuốc, vừa điều trị Tây y vừa điều trị bằng Đông y, thậm chí họ còn đi xem bói và làm theo những gì “thầy” phán như: đặt lại bàn thờ, chuyển cổng đi, sửa lại cửa…
Bệnh nhân bị bệnh cơ thể thường có những phản ứng cảm xúc khác nhau đối với cái đau tăng lên, đối với hoàn cảnh bên ngoài, với những hành vi và lời nói của nhân viên y tế… Dạng phản ứng cảm xúc này phụ thuộc nhiều vào đặc điểm nhân cách của bệnh nhân.
Đặc điểm tâm lí người bệnh tim mạch:
Bệnh động mạch vành, đặc biệt là bệnh nhồi máu cơ tim:
Theo Côxencô và Paramônôva, những biến đổi tâm lí ở những người bệnh này thuộc ba hội chứng sau:
Hội chứng sảng khoái bệnh lí: người bệnh tươi tỉnh, tăng khí sắc, đánh giá không đúng mức độ nặng nhẹ của bệnh, tay chân luôn vận động, đứng ngồi không yên, cởi mở, nói nhiều, phán đoán nông cạn.
Hội chứng nghi bệnh, loạn cảm giác: người bệnh có cảm giác tê, buồn, co thắt ở vùng ngực và vùng cổ, kim châm ở vùng tim. Họ hay hốt hoảng, lo sợ, ngủ đứt quãng, suy nhược và dễ bị xúc động.
Hội chứng giống suy nhược thần kinh: người bệnh khó chịu với ánh sáng và tiếng động, khí sắc không ổn định, hay giận hờn, hay cáu gắt, dễ bị kích động, có khi khóc sướt mướt, suy nhược nặng, làm việc kém.
Bệnh xơ vữa mạch não:
Người bệnh dễ xúc động, khó kiềm chế những hành động bột phát, có khi nói năng ba hoa, có thái độ khoan dung, song lại là người bảo thủ và giảm khả năng lao động sáng tạo.
Những người có tính cách mạnh, có ý chí, luôn muốn đạt mục đích, không thỏa mãn trong công việc… thường dễ mắc bệnh tim mạch. Để ngăn ngừa bệnh này, theo viện sĩ J. Tschaean, cần tránh căng thẳng tâm lí, tình cảm; tránh bị rối loạn điều hòa thần kinh; không hút thuốc lá và có chế độ làm việc, ăn uống hợp lí…
Đặc điểm tâm lí người bị bệnh gan – mật:
Những người bệnh suy gan, xơ gan, viêm gan, viêm đường dẫn mật, túi mật… thường rất nóng nảy, khó tính, hay cáu gắt, bực tức, nặng về xúc cảm âm tính. Đặc biệt người bệnh hay mỉa mai, nhạo báng, độc ác và đa nghi, tiêu cực.
Bệnh sinh của những rối loạn tâm lí này rất phức tạp. Đa số các nghiên cứu cho rằng, đây là hiện tượng nhiễm độc gan của cơ thể, nhất là của hệ thần kinh. Chất độc trong máu tăng lên khác thường có thể do các cơ chế sau:
Chức năng khử độc của gan bị suy giảm nên những chất độc của cơ thể không được thanh lọc, chúng ngày càng tồn đọng trong cơ thể.
Chức năng chuyển hóa của gan bị rối loạn nên các sản phẩm chuyển hóa dở dang (không thành những sản phẩm cuối cùng) của prôtít, lipít, gluxít được đưa thẳng vào máu và gây độc cho cơ thể.
Hệ thống mật bị tổn thương (tế bào gan bị vỡ, đường dẫn mật bị tắc…), nên sắc tố mật, muối mật đổ trực tiếp vào máu và trở thành những chất gây độc cho cơ thể.
Lượng chất độc tăng cao trong máu đã làm nhiễm độc hệ thần kinh và toàn cơ thể người bệnh. Tùy theo mức độ nhiễm độc bệnh biến đổi nhiều hay ít, mạnh mẽ hay từ từ.
Đặc điểm tâm lí người mắc bệnh dạ dày, tá tràng:
Những người bệnh viêm dạ dày mạn tính thường hay thờ ơ, lạnh nhạt, vô cảm, có khi trầm cảm, nghi bệnh, sợ hãi. Những người bệnh loét dạ dày – tá tràng có tính khí thất thường, thiếu kiên trì, nhẫn nại, khó kiềm chế, dễ nổi khùng, kích động, rất nóng tính, hưng phấn mạnh hơn ức chế, lắm điều. Người bệnh khó làm chủ thói quen, không bỏ được thói quen uống rượu, ăn ớt cay, hút thuốc lá… và khó chấp hành các chế độ ăn kiêng.
Người bị bệnh lao:
Có nhiều nghiên cứu về những biến đổi tâm lí ở người bị bệnh lao, nhất là lao phổi, song kết quả của những nghiên cứu này rất khác nhau.
Kraepelin nhận thấy ở những người bệnh này có biến đổi nhẹ về khí sắc và ý chí, hay cáu gắt, nhạy cảm với những sang chấn tâm lí và vật lí, cả tin một cách kỳ lạ, linh hoạt, rất ích kỷ, trí tuệ giảm sút ở mức độ nhất định dẫn đến giảm khả năng phê phán, gặp nhiều khó khăn trong giải quyết những vấn đề bức thiết, có khuynh hướng sợ hãi, ảo giác phản ứng và tự đề cao thể lực của bản thân.
Lenhien – Lavaxtin lại nhận thấy các thuộc tính tâm lí cơ bản của người bệnh bị biến đổi trầm trọng, người bệnh đa sầu, đa cảm, ích kỷ, khó tính, song ở họ lại có sự tìm tòi, sáng tạo một cách độc đáo.
Có tác giả phán đoán rằng, những chất độc đang tràn ngập ở não và hệ thần kinh đã kích thích, làm cho người bệnh có trí tuệ xuất sắc, có đời sống tâm hồn đẹp đẽ và khả năng rung cảm cao…
Cũng có ý kiến nhận xét rằng, sự tế nhị và tinh tế về tâm lí, đảm đang trong cuộc sống là những đặc điểm nổi bật ở những người bệnh này. Trong trạng thái hấp hối, người bệnh có trạng thái sảng khoái, đánh giá cao khả năng bản thân, kích động, lạc quan tếu, hưng phấn mãnh liệt…
T.P. Xiaxon nhận thấy tâm lí của trẻ em bị lao biến đổi theo kiểu tâm thần phân liệt hoặc loạn thần kinh chức năng (kín đáo, lạnh lùng, độc ác…).
Đặc điểm tâm lí của người bệnh ung thư:
Những người bệnh này thường không được biết chính xác về kết quả chẩn đoán bệnh. Họ tò mò tìm hiểu nơi thầy thuốc và những người xung quanh. Họ sợ bị bệnh ung thư, sợ chết. Họ có trạng thái suy nhược, tăng ám thị (sẵn sàng nghe theo bất kỳ ai, miễn là giúp họ khỏi bệnh, hoặc làm dịu cơn đau). Nhiều người tỏ ra thất vọng, tiêu cực, sợ trở thành gánh nặng đối với người thân, thậm chí đi đến tự sát, không thiết sống…
Đặc điểm tâm lí bệnh nhân ngoài da và hoa liễu:
Trong số các bệnh ngoài da, có nhiều bệnh thể hiện ở cả những phần không che kín của cơ thể. Khi đó bệnh nhân thường cảm thấy ngại ngùng xuất hiện ở chỗ đông người. Nhiều người trong số họ, đặc biệt là phụ nữ, đã tự mình cách li khỏi xã hội.
Sự phát triển mạn tính của bệnh có thể dẫn tới xuất hiện những nét nhân cách bệnh lí. Trong thực tiễn đã có trường hợp chỉ do bệnh vảy nến mà bệnh nhân đã có ý định tự sát.
Những bệnh hoa liễu, ví dụ như bệnh giang mai, thường gây ra các stress tâm lí kéo dài cho bệnh nhân. Trong nhiều trường hợp, do phải giấu diếm nên điều trị không được hệ thống. Khi đó, cùng với những kiến thức đã tìm và đọc, bệnh nhân sợ sau này bệnh tiến triển vào “thời kì 4”, thời kì xuất hiện liệt tuần tiến hay giang mai não.
Đặc biệt đối với bệnh nhân HIV/AIDS có những diễn biến tâm lí phức tạp. Những biểu hiện thường gặp nhất là rối loạn trầm cảm và lo âu. Trong cơn trầm cảm, có bệnh nhân có thể thực hiện hành vi tự sát. Có những trường hợp, bệnh nhân kích động hoặc thực hiện những hành vi phi xã hội, ví dụ cố tình truyền bệnh cho nhiều người để trả thù đời.
Đặc điểm tâm lí bệnh nhân sản, phụ khoa:
Những cảm nhận của phụ nữ, lần đầu tiên chuẩn bị làm mẹ cũng khá đa dạng. Trước hết là những cảm nhận về thay đổi sinh học: ban đầu là các phản ứng thai nghén, sau là những khó khăn, hạn chế vận động, có lúc ăn không ngon, ngủ không yên, tiểu tiện thất thường.
Cùng với sự thay đổi về cơ thể là những thay đổi về tâm lí. Càng gần đến ngày sinh con, lo âu của người mẹ lại càng tăng lên. Lo không biết có được mẹ tròn con vuông hay không, sợ sảy thai, ngôi ngược, sợ đẻ non. Nhiều người rất sợ các cơn đau đẻ, sợ băng huyết, sợ nhầm con, nhất là đối với những người đã từng bị sảy thai.
Đặc biệt có những nỗi lo hoàn toàn mang tính tâm lí-xã hội: lo không đẻ được con trai khi chồng và gia đình bên chồng đang “khao khát” một quý tử.
Thậm chí có những lo âu dai dẳng gần như bệnh lí: lo đẻ ra quái thai, dị dạng.
Ngay sau khi sinh con, ở những phụ nữ này lại xuất hiện những vấn đề khác. Hiện tượng thường gặp là trầm cảm sau đẻ (hậu sản): tự nhiên khóc lóc chẳng có nguyên cớ gì, chăm sóc con vụng về hoặc ở mức độ nặng hơn, người mẹ hoàn toàn bỏ trễ, thờ ơ đối với đứa con. Ngoài ra cũng có thể có sợ quá mức: sợ đêm ngủ đè vào con, sợ con tắc thở khi bú.
Đối với những bệnh nhân phải phẫu thuật, ví dụ như phải cắt tử cung thì ngoài những yếu tố tâm lí thường gặp như đối với bệnh nhân ngoại khoa, còn có thể có những lo âu liên quan đến việc mang thai sau này.
Đặc điểm tâm lí bệnh nhân ngoại khoa:
Trạng thái lo âu cũng là một đặc điểm tâm lí nổi bật ở bệnh nhân ngoại khoa. Trong nhiều trường hợp, trạng thái lo âu trước phẫu thuật có thể đạt đến cường độ cao. Lo âu chủ yếu và phổ biến nhất là sợ chết. Mặc dù có thể đã được giải thích song họ vẫn sợ “nhỡ” rủi ro xảy ra, sợ “nhỡ” không thoát ra khỏi trạng thái hôn mê và cuối cùng, lo rằng mổ cũng không giải quyết được bệnh tật.
Đối lập với nhóm trên là những người ưa phẫu thuật. Đó là những người đề nghị được mổ để giải thoát các stress do bệnh hoặc liên quan đến bệnh. Ví dụ: một số bệnh nhân bị loét dạ dày cố gắng thuyết phục bác sĩ cho mổ. Thực hiện các chế độ ăn kiêng: kiêng ăn các chất chua cay; kiêng ăn thức ăn quá nóng hoặc quá lạnh; kiêng uống rượu, bia; kiêng hút thuốc…tất cả các chế độ đó đã thực sự trở thành stress đối với họ. Họ muốn được tự do hơn, không bị lệ thuộc vào các yêu cầu của bác sĩ và theo họ, cách tốt nhất là “cắt” phần dạ dày đã bị loét.
Trạng thái sau phẫu thuật chủ yếu liên quan đến những cơn đau, mất sơ đồ cơ thể. Sự thay đổi sơ đồ cơ thể, ví dụ: phẫu thuật cắt cụt, phẫu thuật tạo hình, phẫu thuật cắt bỏ vú thường làm tăng những lo lắng trong quan hệ với người khác.
Theo A. N. Baculev: phẫu thuật không phải là sự kết thúc điều trị, mà chỉ là tạo nền tảng cho một điều trị mới tiếp theo.
Sự biến đổi tâm lí của người bệnh phụ thuộc rất nhiều vào các giai đoạn phẫu thuật:
Khi chuẩn bị phẫu thuật, người bệnh hay lo lắng về chỗ nằm trước và sau mổ; quan tâm đến những lời bàn tán về trình độ của bác sĩ phẫu thuật chính, về cách mổ và những điều khác liên quan đến cuộc mổ.
Giai đoạn tiền phẫu thuật và trong phẫu thuật, nhất là ở những người bệnh gây tê, châm tê hoặc gây mê không hoàn toàn (ý thức còn tỉnh, chỉ làm mềm cơ và giảm đau), họ lo lắng vì tiếng va chạm của dụng cụ, họ chú ý theo dõi “không khí tâm lí” trong cuộc mổ và những lời bàn tán của phẫu thuật viên…
Trong số những bệnh nhân nằm viện, bệnh nhân ngoại khoa, đặc biệt là trước khi mổ, là những người chịu nhiều stress nhất. Theo M. Pitts (2003) có 3 thành tố chính tham gia vào stress của bệnh nhân trước khi mổ:
Bị gây mê: trong trạng thái bị gây mê, người bệnh hiểu rằng mình bị mất ý thức, không còn khả năng kiểm soát bản thân. Mặt khác họ cũng sợ “không tỉnh dậy”, bị “ngủ” luôn hoặc tỉnh lại được nhưng có thể “quên hết mọi thứ”.
Lo ngại những cơn đau sau mổ, đặc biệt là khi đã tỉnh lại và thuốc giảm đau đã hết tác dụng.
Chính sự kiện phẫu thuật: bị mổ, rạch thịt, da, dao, kéo…
Theo Pitts, mỗi thành tố trên cũng đã có thể là một tác nhân gây stress. Tuy nhiên chúng thường xuất hiện kết hợp với nhau làm cho stress càng phức tạp và khó đối phó.
Một điểm cũng đáng lưu ý nữa và nó cũng có thể là một tác nhân gây stress cho bệnh nhân trước phẫu thuật. Đó là ý nghĩ rằng cơ thể mình bị bộc lộ cho người lạ. Tất nhiên không phải trường hợp nào cũng bị như vậy.
Trong giai đoạn hậu phẫu, người bệnh lo lắng vì đau đớn, lo bị tai biến sau mổ, lo cho sự lành sẹo và sự hồi phục sức khỏe sau này. Lúc này thái độ khách quan, lời nói động viên, sự giúp đỡ tận tình… của thầy thuốc, của người thân và của những người xung quanh là rất cần thiết, có tác dụng hỗ trợ cho người bệnh vượt qua những khó khăn của phẫu thuật và bệnh tật.
Có rất nhiều nghiên cứu tập trung vào những phản ứng của bệnh nhân đối với phẫu thuật, mối liên quan giữa lo âu, chuẩn bị cho phẫu thuật và hồi phục. Janis (1958, 1969) là một trong những người đầu tiên đề cập đến lo âu trước mổ và mối liên quan với quá trình phục hồi sau mổ. Lo sợ của những người trong nhóm nghiên cứu được chia làm 3 mức độ: thấp, vừa và cao. Kết quả cho thấy chỉ có nhóm lo sợ mức độ vừa là có kết quả hồi phục tốt hơn, Theo tác giả, điều này cho thấy đối với một biến cố lớn như phẫu thuật, người bệnh cũng cần phải có sự quan tâm lo lắng ở mức độ vừa phải: không nên quá mức song cũng không nên chẳng lo lắng gì. Tuy nhiên nghiên cứu của Johnston và Carpenter (1980), của Wallace lại đưa ra kết quả khác: chỉ có những trường hợp lo sợ quá mức thì quá trình phục hồi kém hơn.
Liệu pháp tâm lí đối với bệnh nhân bệnh cơ thể.
Khái niệm chung:
Suốt một thời gian dài, người ta xem liệu pháp tâm lí là biện pháp điều trị của riêng ngành Tâm thần. Nó được sử dụng chủ yếu đối với những rối loạn do căn nguyên tâm lí. Trong lâm sàng nội, ngoại khoa chung (hay đối với bệnh nhân thực thể nói chung) liệu pháp tâm lí chỉ giới hạn ở những tác động mang tính giải thích, động viên chung chung.
Từ những năm 1970 trở lại đây, liệu pháp tâm lí được ứng dụng rất mạnh mẽ trong tất các các chuyên ngành lâm sàng khác nhau. Nội dung của khái niệm cũng đã thay đổi. Nếu trước đây liệu pháp tâm lí là một biện pháp điều trị thì bây giờ, liệu pháp tâm lí được coi là những tác động lên tâm lí người bệnh nhằm cải thiện tình trạng sức khỏe (cả về tâm lí và thể chất), nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh, thậm chí còn nhằm góp phần kéo dài cuộc sống cho những trường hợp hiểm nghèo (ví dụ: ung thư). Chính vì vậy, xu hướng hiện nay là dùng thuật ngữ can thiệp tâm lí thay cho liệu pháp tâm lí.
Các dạng liệu pháp tâm lí:
Các dạng của liệu pháp tâm lí rất phong phú, đến nay người ta ước tính có khoảng 400 dạng liệu pháp tâm lí dành cho người lớn và gần 200 dạng dành cho trẻ em (Kazdin, 1994). Cơ sở lí luận của các dạng liệu pháp tâm lí cũng rất phong phú (xem thêm bài “Liệu pháp tâm lí” trong phần Tâm thần học). Tuy nhiên điều có thể dễ dàng nhận thấy là các kĩ thuật liệu pháp tâm lí dựa trên cơ sở của Tâm lí học Hành vi là phát triển nhất.
Những kĩ thuật chủ yếu được sử dụng thường tập trung vào: thay đổi nhận thức, thay đổi thái độ và thay đổi hành vi theo hướng phù hợp, thích ứng với tình trạng hiện tại, qua đó nhằm đạt những mục tiêu của liệu pháp tâm lí. Trong nhiều trường hợp, các kĩ thuật này được sử dụng kết hợp với kĩ thuật thư giãn.
Chuẩn bị tâm lí trước phẫu thuật:
Chuẩn bị tâm lí cho bệnh nhân trước phẫu thuật là điều đang được các nhà lâm sàng ngoại khoa quan tâm.
Có hai loại thông tin chính mà các thầy thuốc, nhân viên y tế cần quan tâm trong chuẩn bị tâm lí cho bệnh nhân trước phẫu thuật:
Thông tin về qui trình: đây được xem như là những thông tin về mặt kĩ thuật mà bệnh nhân muốn (và cần) biết. Ví dụ: thời gian mổ vào lúc nào, kéo dài bao lâu, bệnh nhân phải qua những khâu nào.
Thông tin về giác quan: bệnh nhân rất muốn biết những cảm giác mà họ sẽ có khi phẫu thuật, dạng đau như thế nào, mức độ dữ dội hay vừa, đau kéo dài trong bao lâu.
Theo nhiều tác giả, bệnh nhân cần phải được chuẩn bị tốt về mặt tâm lí trước phẫu thuật.
Các tác giả khác cũng đưa ra những mô hình của mình về chuẩn bị tâm lý cho bệnh nhân phẫu thuật. Những chủ đề mà các tác giả thường tập trung vào là:
Các phản ứng cảm xúc đối với việc nằm viện.
Luyện tập các kỹ năng thư giãn.
Luyện tập các kỹ năng nhận thức để đối phó.
Nhiều nghiên cứu cho thấy 2 qui trình: luyện tập thư giãn và luyện tập nhận thức là có kết quả cao hơn tất cả. Nhìn chung các qui trình này còn phụ thuộc vào đặc điểm nhân cách cá nhân.
Bảng 7.1: Chuẩn bị tâm lý trước phẫu thuật.
Nội dung |
Ví dụ |
Qui trình |
Đầu tiên, ông/bà được đưa lên phòng mổ, sau đó được gây mê |
Giác quan |
Khi ông/bà tỉnh dậy thì thấy khát khô cổ. Điều đó cũng là bình thường thôi |
Hướng dẫn hành vi |
Ông/bà hãy thở thật mạnh một, hai lần để thông khí phổi |
Luyện tập theo mô hình |
Đây là đoạn băng ghi hình một người đã được phẫu thuật như của ông/bà |
Luyện tập thư giãn |
Chú ý đến thở sâu |
Ngừa stress |
Ông/bà hãy chú ý đến các kỹ thuật thư giãn như đã nắm được |
Luyện tập nhận thức |
Ông/bà nói rằng ông/bà rất lo lắng đến phẫu thuật, liệu ông/bà có thể tập trung làm suy nghĩ của mình tích cực hơn không |
(Nguồn: Pitts “Health psychology, 2002 ”)
Một số tác giả sử dụng liệu pháp tâm lý nhóm: bố trí bệnh nhân chuẩn bị mổ ở cùng phòng với người mới mổ xong (Kulik và Mahler, 1993). Kết quả cho thấy những bệnh nhân ở cùng phòng với người đã mổ ít lo âu trước phẫu thuật và nhanh ổn định hơn sau phẫu thuật.