Tâm lí người bệnh và các yếu tố môi trường tự nhiên.
Môi trường tự nhiên xung quanh con người bao gồm những yếu tố như nhiệt độ, màu sắc, âm thanh, mùi vị, thời tiết, khí hậu và các yếu tố địa lí khác… Những yếu tố này tác động mạnh, làm thay đổi trạng thái tâm lí, khí sắc, sức khỏe, trương lực sống và tình trạng bệnh tật… của người bệnh.
Tâm lí người bệnh và màu sắc:
Từ thời Hyppocrates, người ta đã biết màu sắc có tác động đến tâm lí người bệnh và đã dùng màu sắc để chữa bệnh.
Phương thức tác động của màu sắc lên tâm lí người bệnh có thể theo hai cách: hoặc là tác động trực tiếp, nghĩa là màu sắc tạo ra cho người bệnh những phản ứng trực tiếp (ví dụ: màu vàng tạo ra cảm giác lạnh, mát; màu sẫm tạo cảm giác nóng, ấm); hoặc là tác động gián tiếp, nghĩa là tác động qua liên tưởng (ví dụ: màu vàng da cam làm con người liên tưởng tới lửa, từ đó có cảm giác nóng; màu trắng, liên hệ đến tuyết, nên có cảm giác lạnh; màu xanh, liên hệ đến cây, nên có cảm giác mát mẻ).
Thứ tự tác động thích hợp của màu sắc lên tâm lí người bệnh giảm dần theo chiều hướng sau: màu xanh da trời, xanh lá cây, màu đỏ, màu đen. Một màu sắc đơn độc, dù thích hợp đến mấy, song tác động lâu cũng gây ức chế tâm lí. Cách trang trí thích hợp là phối hợp hài hòa nhiều màu với nhau.
Kết quả tác động của một số màu sắc như sau:
Màu hồng tạo không khí tưng bừng, kích thích thần kinh người nóng tính, kích thích sản xuất hồng cầu. Thời Trung Cổ người ta thường vẩy nước màu hồng lên người ốm. Dân vùng Capcadơ thường cho người ốm đắp chăn màu hồng…
Màu hồng tươi làm những người quá xúc động trấn tĩnh trở lại, làm cho người hiếu động trở nên thụ động và cơ bắp yếu bớt đi.
Theo một số tác giả, màu hồng là màu của những người mơ mộng, giàu tình cảm, vị tha. Sự ưa chuộng màu hồng thường là biểu hiện tính cách của những người thiếu tự tin, cần sự bảo vệ.
Màu đỏ là màu của sức khỏe, của niềm vui. Những người ưa thích màu đỏ thường là người năng nổ, dễ kích động, thích tranh luận và có tính tự kỉ.
Những đồ vật có màu hồng, màu đỏ thường làm cho chúng ta có cảm giác như chúng to hơn.
Màu vàng được coi là màu gây nhiều mâu thuẫn nhất. Có người cho rằng, đây là màu chứa đựng mầm mống của sự kích thích. Những người hay mang đồ màu vàng thường có tư duy mạch lạc, song dễ nổi nóng. Cũng có tác giả cho rằng, đây là màu của sự anh minh và trí tưởng tượng. Một số người lại có nhận xét, đây là màu của những người hay “phóng đại” khả năng của mình; trịch thượng, hợm hĩnh…
Màu vàng có tác dụng kích thích tiêu hoá. Song, màu vàng đậm lại gây nôn.
Màu nâu thường gây ức chế, buồn rầu; làm người bệnh ăn mất ngon.
Từ lâu, màu đen đã là biểu hiện của sự bí ẩn, độc ác và buồn đau. Những người ưa màu đen thường thích gây ấn tượng mạnh và hay che giấu những ý định, phẩm chất đích thực của mình. Có tác giả cho rằng, đây là màu gợi tình.
Màu xám thường là màu của những người không thích nổi bật, nhưng thích sự tế nhị và không xác định.
Ngược lại, màu tím thường bị coi là màu của những người thích chơi trội, khác người. Theo Goethe, ở châu Âu, màu tím bị coi là màu đơn côi, gợi nỗi buồn nhớ. Còn đối với chúng ta, màu tím là màu biểu hiện của tình yêu.
Màu da cam là màu dành cho những người chững chạc, thận trọng và thường đóng những vai trò quan trọng. Song những người ưa màu này thường khó thích ứng với những điều kiện, hoàn cảnh mới và hay gặp “vấn đề” trong những tình huống bất thường…
Màu xanh làm hạ huyết áp, giảm căng thẳng thần kinh. Màu xanh đậm làm cho người bệnh có cảm giác an toàn. Màu xanh da trời tạo cảm giác yên tĩnh, làm mất sự suy yếu của cơ bắp do màu hồng gây ra. Những người thích màu xanh lơ thường là người nghiêm khắc, có khả năng thích ứng cao với hoàn cảnh, trung thực, ổn định, không ưa tranh luận, đối đầu. Màu xanh lá cây được coi là màu của sự tin cậy. Những người thích nó thường khiêm nhường, mực thước, nhẫn nại, không bộc lộ những tình cảm sôi động. Nhìn vào màu xanh lá cây, lúc đầu chúng ta có cảm giác dễ chịu, song về sau, nếu nhìn lâu sẽ bị ức chế, thậm chí bị rơi vào tình trạng trầm cảm. Những ánh sáng màu lục làm cho người bệnh hoạt động kém hơn so với những ánh sáng màu đỏ.
Màu trắng thường gây phản ứng trung tính. Đôi khi nó làm cho những người bệnh nhức đầu, đau khớp, bệnh thần kinh bị khó ngủ và chỗ đau bị tái phát.
Sự kết hợp khéo léo màu trắng với các màu khác là biểu lộ một tính cách bình ổn và giàu sức sáng tạo. Theo Giac Vieno (nhà tô màu nổi tiếng người Pháp): màu sắc có đủ khả năng, có thể sinh ra ánh sáng, tạo nên sự yên tĩnh hoặc phấn chấn, làm tâm hồn êm dịu hay bão tố, đem lại cảm giác thanh bình hay thảm họa.
Tâm lí người bệnh và âm thanh:
Âm thanh tác động rất lớn đến xúc cảm. Những tiếng ồn mạnh và kéo dài sẽ gây ra cảm giác khó chịu, mệt mỏi, thậm chí dẫn đến rối loạn tâm thần. Trái lại, nếu quá yên tĩnh sẽ gây ức chế.
Âm nhạc tạo nên xúc cảm tích cực cho người bệnh, làm thay đổi khí sắc, gây lòng sung sướng hoặc buồn rầu. Mặt khác, âm nhạc tạo ra một nhịp điệu sinh hoạt đều đặn. Âm điệu và nhịp điệu của âm nhạc có khả năng làm biến đổi tần số hô hấp, nhịp đập của tim và tác động lên quá trình trao đổi chất của cơ thể. Lep Tônxtôi đã nói: “Âm nhạc là tốc ký của tình cảm”.
Trong lâm sàng thần kinh và tâm thần, các thầy thuốc đã sử dụng âm nhạc để điều trị. Âm nhạc được dùng làm phương tiện giảm đau.
Sự tri giác âm nhạc sâu sắc phụ thuộc vào sự rèn luyện, năng khiếu thẩm mỹ và nhất là trạng thái tâm lí của người bệnh. Vì vậy, việc sử dụng âm nhạc để điều trị phải phù hợp với từng người bệnh.
M. Bechterev nói: âm nhạc làm chủ xúc cảm của chúng ta. Bằng âm nhạc, thầy thuốc có thể tạo ra được khí sắc nhất định, giảm được hưng phấn, biến được trạng thái buồn rầu thành vui tươi, tác động lên hô hấp và tuần hoàn, làm cơ thể đỡ mệt mỏi, tạo cho mọi người một sinh lực dồi dào.
Tâm lí và một số yếu tố khác của môi trường tự nhiên:
Mùi tác động lên cơ quan khứu giác và qua đó tác động lên tâm lí người bệnh. Mùi của những chất nôn, chất thải; mùi của một số thuốc, hóa chất… làm người bệnh khó chịu, sợ hãi. Có một số người bệnh luôn nhớ về một mùi nhất định, ví dụ: người bị bệnh bạch hầu thường nhớ tới mùi bánh mốc; người bị bệnh dịch hạch thường nhớ đến mùi táo…
Mùi thơm của hoa quả, của thảo mộc, của nước hoa… làm người bệnh phấn chấn. Mùi tinh dầu hồi, long não… kích thích tuần hoàn, hô hấp của người bệnh.
Mùi chanh làm người bệnh đỡ mệt mỏi, tinh thần sảng khoái; mùi hoa hồng sẽ tạo nên cảm giác êm dịu, tĩnh tại…
Vệ sinh thân thể, trang phục ảnh hưởng không nhỏ đến khí sắc của người bệnh. Những quần áo cũ, rách, không đúng cỡ số… làm cho người bệnh cảm thấy buồn cho thân thể ốm đau của mình. Đối với những trường hợp này, nên cho người bệnh dùng một số đồ dùng cá nhân, miễn là giữ gìn sạch sẽ.
Tình hình khí hậu và vi khí hậu ảnh hưởng quan trọng đến tâm lí người bệnh. Không khí trong lành, áp lực khí quyển vừa phải, không nóng quá, không lạnh quá… sẽ ảnh hưởng tốt đến khí sắc. Quang cảnh bệnh viện thoáng mát, trang trí buồng bệnh hài hòa, có chậu hoa, cây cảnh đẹp đẽ ở cửa sổ… sẽ làm cho người bệnh cảm thấy gần gũi với thiên nhiên, thêm yêu cuộc sống và tinh thần thêm vui vẻ…
Tâm lí người bệnh và các yếu tố môi trường xã hội.
Con người là một thực thể xã hội, vì vậy tồn tại xã hội và môi trường xã hội xung quanh là những yếu tố có ý nghĩa rất đặc biệt. Người bệnh tuy nằm trên giường bệnh, ngoài quan hệ chặt chẽ với nhân viên và người bệnh khác, bằng muôn vàn sợi dây vô hình họ còn gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của gia đình, người thân, bạn bè; với tình hình lao động sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu của đơn vị, của đất nước; với các sự kiện đang diễn ra trên khắp hành tinh chúng ta… Những mối quan hệ này trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới người bệnh, bằng những phương tiện ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ. Mối quan hệ xã hội của người bệnh rất đa dạng, nhiều chiều và kết quả tác động của nó lên tâm lí cũng như bệnh tật rất khác nhau, có khi là những tác động tự phát, tiêu cực, cũng có khi là những tác động chủ định, tích cực…
Tác động tâm lí của môi trường xã hội ngoài bệnh viện:
Những tác động này thường gián tiếp, qua nghe đài, xem ti vi, đọc sách báo và qua thư từ, lời kể của người đến thăm, của nhân viên y tế… Những thông tin, tư liệu ở đây thường tự phát, chưa được chọn lọc cho phù hợp với từng người bệnh. Người thầy thuốc phải biết cách hướng những thông tin này vào mục đích điều trị, gây ảnh hưởng tốt nhất cho sự hồi phục sức khỏe người bệnh.
Người thầy thuốc cần hướng dẫn người bệnh đọc những bài báo, nghe những buổi phát thanh, xem những chương trình truyền hình thích hợp, bổ ích; cần điều chỉnh một cách hợp lí các cuộc đến thăm, tránh tình trạng có người bệnh phải vất vả tiếp nhiều cuộc viếng thăm hình thức, vô bổ, trong khi những người bệnh khác buồn tẻ, không có ai thăm hỏi. Người thầy thuốc cũng cần nhắc nhở những người đến thăm phải tiếp thêm lòng hăng hái, vui vẻ, quyết tâm khắc phục bệnh tật cho người bệnh.
Larrey (bác sĩ phẫu thuật của quân đội Napoleon) đã nói rất đúng rằng: vết thương liền nhanh hơn trong đội quân của những người chiến thắng.
Thông qua những người đến thăm, thông qua cách giao tiếp của người bệnh với môi trường xã hội bên ngoài, người thầy thuốc hiểu thêm người bệnh và bệnh tật để có những phương pháp điều trị hợp lí. Qua mối quan hệ tiếp xúc với môi trường bên ngoài, người bệnh gần gũi với cuộc sống thường ngày và đây là sự chuẩn bị tốt để sau khi khỏi bệnh, họ nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống.
Tác động tâm lí của môi trường xã hội trong bệnh viện:
Mối quan hệ xã hội bên trong bệnh viện được tập trung vào quan hệ giữa những người bệnh với nhau và giữa người bệnh với nhân viên y tế.
Quan hệ người bệnh với người bệnh:
Những người mắc cùng một loại bệnh, nhất là bị khuyết tật như nhau, hoặc bị cùng loại bệnh mạn tính, thường có thiện cảm với nhau; họ có cùng mối quan tâm và rất thích trao đổi với nhau về bệnh sử, diễn biến bệnh tật cũng như về phương pháp điều trị. Nhiều khi sự trao đổi này lại là khởi nguồn của những mối quan hệ thân thiện, gắn bó về sau. Họ tự tổ chức những hội không chính thức (như câu lạc bộ) để thông báo cho nhau về phương pháp điều trị mới, chia sẻ với nhau về diễn biến của sức khỏe, bệnh tật…
Những người bệnh ở cùng một phòng cần có sự tương đồng về tâm lí. Người thầy thuốc phải biết bố trí hợp lí, phải đối xử bình đẳng theo bệnh tật những người bệnh trong cùng phòng; phải biết đề phòng những tác động xấu do người bệnh gây ra cho nhau.
Người bệnh chuẩn bị mổ nên xếp nằm cùng phòng với người bệnh đã mổ đạt kết quả tốt, sắp ra viện. Người bệnh mới nên xếp cùng phòng với “cựu bệnh nhân” có thái độ tích cực và chấp hành nghiêm chế độ điều trị.
Không nên để những người bệnh có mâu thuẫn, hiềm khích, ác cảm với nhau nằm chung một phòng. Những người bệnh nặng, phải xử lí cấp cứu nhiều lần; những người bệnh hấp hối… nên xếp nằm riêng ở phòng cấp cứu để không gây ảnh hưởng xấu đến những người bệnh khác. Những người bệnh thiếu vốn hiểu biết, lại có nhân cách nghi bệnh, cần được quan tâm thích đáng, tránh để họ mắc thêm những bệnh mới do bị ám thị bởi những người bệnh khác.
Không khí tâm lí hài hòa trong buồng bệnh là rất cần thiết cho quá trình điều trị. Người thầy thuốc phải tạo nên sự thông cảm, quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người bệnh; động viên họ cùng nhau chấp hành nghiêm túc mệnh lệnh điều trị và các nội qui, qui định của bệnh viện; giúp họ thực hiện có hiệu quả liệu pháp tâm lí nhóm; tránh những phản ứng ngầm hoặc những phản ứng mang tính tập thể không có lợi cho việc điều trị.
Quan hệ giữa người bệnh và nhân viên y tế:
Những ảnh hưởng của nhân viên y tế lên trạng thái tâm lí, nhân cách, hứng thú… của người bệnh là rất lớn.
Mục đích tác động tâm lí của nhân viên y tế lên người bệnh là loại trừ hoặc làm giảm tối đa những tác hại của bệnh tật và tạo nên những yếu tố có lợi cho sự hợp tác trong quá trình điều trị. Yêu cầu đặt ra cho nhân viên y tế là điều trị nhanh, an toàn và làm vừa lòng người bệnh. Người bệnh đòi hỏi ở nhân viên y tế chủ nghĩa nhân đạo và lương tâm. Người thầy thuốc không được gây phiền hà; không được làm những thăm khám, xét nghiệm không cần thiết và tốn kém cho người bệnh; không được kê đơn những thuốc đắt tiền, khó tìm kiếm, vượt quá khả năng của người bệnh…
Thầy thuốc phải tránh những tác động có hại lên tâm lí người bệnh. Một lời nói thiếu thận trọng, thái độ coi thường ý kiến của người bệnh, thảo luận về bệnh với đồng nghiệp trước mặt người bệnh, nét mặt không bình thường khi đọc bệnh án, khi xem các kết quả xét nghiệm… tất cả đều có thể tác động không tốt đến tâm lí người bệnh. Nói cho người bệnh biết những chẩn đoán nguy hại hoặc tiên lượng xấu của bệnh, không để ý đến hình ảnh lâm sàng bên trong của bệnh, bỏ qua những biến đổi trạng thái tâm lí, nhân cách của người bệnh, không chú ý đến những tác động của môi trường xung quanh, không coi trọng những chuẩn mực y đức… đều có thể mang lại hậu quả bất lợi cho người bệnh. Giữ bí mật về bệnh tật cho người bệnh nếu điều đó không có hại cho xã hội, mà lại bảo vệ được sự trong sạch tâm lí, là điều rất quan trọng. Cần hết sức tránh để người bệnh mắc những bệnh do chính thầy thuốc gây ra. Nhân viên y tế không những không được tác động xấu lên người bệnh mà còn phải tạo ra những tác động dương tính, giúp họ đấu tranh với bệnh tật.
Cần tiến hành tâm lí liệu pháp, hướng dẫn vệ sinh tâm lí, dự phòng các bệnh tâm thần cho người bệnh và giúp họ khắc phục các yếu tố gây stress, tránh những gánh nặng tâm lí trong khám, chữa bệnh cũng như trong quá trình hồi phục sức khỏe.
Mối quan hệ giữa nhân viên y tế với người bệnh là mối quan hệ giữa con người với con người, giữa nhân cách với nhân cách. Điều trị người bệnh một cách toàn diện, nghĩa là người thầy thuốc đồng thời với quá trình tích cực cứu chữa bệnh tật, phải hết lòng chăm lo, nâng đỡ tâm lí, tinh thần cho người bệnh.
Sự thích nghi của người bệnh với môi trường:
Có ba loại thích nghi của người bệnh với môi trường xung quanh, nhất là môi trường xã hội.
Người bệnh thích nghi được với môi trường:
Những người bệnh này luôn tìm cách khắc phục bệnh tật về mặt tâm lí. Họ coi bệnh tật chỉ là một quá trình sinh vật và vẫn giữ nguyên các giá trị xã hội của mình.
Có trường hợp bệnh tật kích thích ý chí của cá nhân, giúp họ huy động mọi khả năng để khắc phục khó khăn và duy trì các hoạt động sáng tạo. Có nhiều người tàn tật nhưng do khổ công rèn luyện nên đã làm được những việc phi thường. Khả năng bù trừ tâm lí của họ là rất lớn.
Phương pháp thích nghi xã hội của người bệnh cũng vô cùng phức tạp, mang tính cá biệt và phụ thuộc rất nhiều vào nhân cách cá nhân, vào sự giáo dục và điều kiện xã hội. Việc thành lập các trường dành riêng cho những người khuyết tật; tổ chức các cuộc thi thể thao, văn hóa cho những người tàn tật… vừa thể hiện sự quan tâm, lòng nhân đạo của xã hội, vừa tạo điều kiện để người tàn tật thích nghi với cuộc sống và để họ tiếp tục cống hiến nhiều hơn.
Người bệnh không thích nghi được:
Đây là những người không có khả năng khắc phục bệnh tật về mặt tâm lí, đầu hàng bệnh tật, tuyệt vọng, tự coi mình là thứ bỏ đi. Họ là người nhu nhược ý chí, ngại đấu tranh với bệnh tật, đi tìm sự bù trừ trong rượu và thuốc ngủ; tự dày vò, than vãn về số phận. Có người bệnh chìm trong đau khổ, sống cô đơn, ích kỉ. Song ngược lại, có người bệnh phô trương, cường điệu bệnh tật, ỷ lại, đòi ưu đãi, quấy rầy gia đình, bệnh viện, xã hội…
Sự thích nghi đang tiếp diễn:
Đây là dạng thích nghi hay gặp hơn cả, bao gồm những người bệnh có quá trình thích nghi chưa hoàn chỉnh, chưa bền vững (sự thích nghi còn đang tiếp diễn). Với những người bệnh này, thầy thuốc phải hướng dẫn cho họ biết cách nghỉ ngơi, lao động, rèn luyện tâm lí, thể lực… Đây chính là những biện pháp giáo dục y học mà các thầy thuốc cần tiến hành để giúp người bệnh ngày càng thích nghi với môi trường.