Khái niệm nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc y tế
Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) là một trong những thách thức và mối quan tâm hàng đầu tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Theo Tổ chức y tế Thế giới: Nhiễm khuẩn bệnh viện hay nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc y tế là nhiễm khuẩn người bệnh mắc phải trong quá trình nằm viện, nhiễm khuẩn đó không phải là lý do nhập viện và không có biểu hiện triệu chứng hay đang ở giai đoạn ủ bệnh lúc người bệnh nhập viện. Nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc y tế (CSYT) bao gồm cả những nhiễm khuẩn người bệnh đã mắc phải trong bệnh viện nhưng xuất hiện sau khi người bệnh ra viện và những nhiễm khuẩn do phơi nhiễm nghề nghiệp của nhân viên y tế trong các cơ sở khám, chữa bệnh.
Theo Trung tâm kiểm soát bệnh Hoa kỳ (CDC): Nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc y tế là những nhiễm khuẩn mà người bệnh mắc phải trong khi đang được điều trị một bệnh khác ở cơ sở y tế. Nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc y tế là một trong mười nguyên nhân hàng đầu gây tử vong tại Hoa Kỳ.
Nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc y tế là chỉ số chất lượng chuyên môn, chỉ số an toàn của người bệnh, chỉ số đánh giá sự tuân thủ về thực hành của nhân viên y tế (NVYT), chỉ số đánh giá hiệu lực của công tác quản lý và là một chỉ số rất nhạy cảm đối với người bệnh và xã hội.
Tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện
Đối với người bệnh
Nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc y tế là yếu tố hàng đầu đe doạ sự an toàn của người bệnh trong các cơ sở y tế. Đặc biệt trong thời kỳ gia tăng số người nhiễm HIV/AIDS, viêm gan B, viêm gan C và các bệnh dịch nguy hiểm, người bệnh đứng trước nguy cơ có thể bị mắc thêm bệnh khi nằm viện hoặc khi nhận các dịch vụ y tế.
Các điều tra quy mô vùng, quốc gia và liên quốc gia của các nước và Tổ chức Y tế Thế giới đều ghi nhận tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện từ 3,5% đến
10% người bệnh nhập viện. Một số điều tra ban đầu về nhiễm khuẩn bệnh viện ở nước ta cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện hiện mắc từ 3 – 7% tùy theo tuyến và hạng bệnh viện. Càng ở bệnh viện tuyến trên, nơi có nhiều can thiệp thủ thuật, phẫu thuật thì nguy cơ nhiễm khuẩn càng lớn.
Tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện tại Việt Nam chưa được xác định đầy đủ. Có ít tài liệu và giám sát về nhiễm khuẩn bệnh viện được công bố. Những tốn kém về nhân lực và tài lực do nhiễm khuẩn bệnh viện trong toàn quốc cũng chưa được xác định. Đến nay đã có ba cuộc điều tra cắt ngang (point prevalence) mang tính khu vực đã được thực hiện. Điều tra năm 1998 trên 901 bệnh nhân trong 12 bệnh viện toàn quốc cho thấy tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện là 11.5%; trong đó nhiễm khuẩn vết mổ chiếm 51% trong tổng số các nhiễm khuẩn bệnh viện. Điều tra năm 2001 xác định tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện là 6.8% trong 11 bệnh viện và viêm phổi bệnh viện là nguyên nhân thường gặp nhất (41.8%). Điều tra năm 2005 tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện trong 19 bệnh viện toàn quốc cho thấy là 5.7%.
Đối với nhân viên y tế
Ngày nay, tuy kiến thức kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện đã được nâng cao, phương tiện phòng hộ cá nhân đầy đủ hơn nhưng nhiễm khuẩn bệnh viện vẫn phải đối mặt với nguy cơ cao về phơi nhiễm nghề nghiệp đối với các tác nhân gây bệnh tại nơi làm việc. Bức tranh nhân viên y tế phơi nhiễm nghề nghiệp thường không đầy đủ do thiếu hệ thống báo cáo tin cậy. Các nghiên cứu ban đầu của Viện Y học Lao động và Cục Quản lý Khám, chữa bệnh – Bộ Y tế (2012) cho thấy tỷ lệ nhân viên y tế báo cáo bị tai nạn rủi ro do vật sắc nhọn từ 35% đến 54% trong một năm.
Tác nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện
Theo kết quả điều tra tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện hiện mắc, tác nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện đa số là vi khuẩn Gram âm (78%), 19% Gram dương và 3% là Candida sp.
Nguyên nhân dẫn đến nhiễm khuẩn liên quan đến cở sở y tế
Đối với người bệnh
Các yếu tố nội sinh: là các yếu tố liên quan đến người bệnh như mắc các bệnh mãn tính, mắc các bệnh tật làm suy giảm khả năng phòng vệ của cơ thể, trẻ sơ sinh non tháng và người già. Đặc biệt các vi sinh vật cư trú trên da, các hốc tự nhiên của cơ thể người bệnh có thể gây nhiễm trùng cơ hội, những người bệnh dùng thuốc kháng sinh kéo dài…
Các yếu tố ngoại sinh như: Vệ sinh môi trường, nước, không khí, chất thải, quá tải bệnh viện, nằm ghép, dụng cụ y tế, các phẫu thuật, các can thiệp thủ thuật xâm lấn …
Các yếu tố liên quan đến sự tuân thủ của nhân viên y tế: tuân thủ các nguyên tắc vô khuẩn, đặc biệt vệ sinh bàn tay của nhân viên y tế.
Nguyên nhân phơi nhiễm nghề nghiệp đối với nhân viên y tế
Ba nguyên nhân chính làm cho nhân viên y tế bị phơi nhiễm nghề nghiệp với các tác nhân gây bệnh qua đường máu là:
Tai nạn rủi ro từ kim tiêm và vật sắc nhọn nhiễm khuẩn;
Bắn máu và dịch từ người bệnh vào niêm mạc mắt, mũi, miệng khi làm thủ thuật;
Da tay không lành lặn tiếp xúc với máu và dịch sinh học của người bệnh có chứa tác nhân gây bệnh.
Hậu quả của nhiễm khuẩn bệnh viện
Tăng biến chứng
Tăng tử vong
Tăng ngày điều trị: một nghiên cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy cho thấy nhiễm khuẩn bệnh viện làm kéo dài thời gian nằm viện 15 ngày.
Tăng sự kháng thuốc của vi sinh vật: cùng với sự xuất hiện một số bệnh gây ra bởi những vi sinh vật kháng thuốc, hoặc bởi những tác nhân gây bệnh mới, nhiễm khuẩn bệnh viện vẫn còn là vấn đề nan giải ngay cả ở các nước đã phát triển. Các bệnh nguyên gây nhiễm khuẩn bệnh viện có mức độ đa kháng kháng sinh cao hơn các bệnh nguyên gây nhiễm khuẩn trong cộng đồng.
Tăng giá thành điều trị: nhiễm khuẩn bệnh viện kéo dài thời gian nằm viện trung bình từ 7 đến 15 ngày, làm gia tăng sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh. Theo một số nghiên cứu đã công bố cho thấy: chi phí của một nhiễm khuẩn bệnh viện thường gấp 2 đến 4 lần so với những trường hợp không nhiễm khuẩn bệnh viện. Chi phí phát sinh do nhiễm khuẩn huyết bệnh viện là $34,508 đến $56,000 và do viêm phổi bệnh viện là $5,800 đến $40,000. Tại Hoa Kỳ, hàng năm ước tính có 2 triệu bệnh nhân bị nhiễm khuẩn bệnh viện, làm tốn thêm 4,5 tỉ dollar viện phí. Với viện phí trung bình mỗi ngày là 192,000 VND, có thể ước tính chi phí phát sinh do nhiễm khuẩn bệnh viện là vào khoảng 2,880,000 VND Có thể ngăn ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện qua những chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện.
Giảm chất lượng điều trị và giảm uy tín của bệnh viện
Các văn bản quy phạm pháp luật về kiểm soát nhiễm khuẩn
Kể từ năm 1997, trong Quy chế bệnh viện Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về công tác kiểm soát nhiễm khuẩn và các Chỉ thị tăng cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn. Dưới đây là một số văn bản hiện hành:
Luật KBCB: Điều 62 quy định Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có trách nhiệm: Thực hiện các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn (Giám sát, khử khuẩn, tiệt khuẩn, vệ sinh,XLCT..); bảo đảm cơ sở vật chất cho kiểm soát nhiễm khuẩn; tư vấn về các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn; người làm việc trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và người bệnh phải tuân thủ các quy định về kiểm soát nhiễm khuẩn.
Thông tư 18/2009/TT-BYT ngày 14 tháng 10 năm 2009 về hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã thay thế cho các quy định trước đây tại Quy chế bệnh viện các quy chế liên quan đến công tác kiểm soát nhiễm khuẩn.
Kế hoạch quốc gia về tăng cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn giai đoạn 2011-2015
Các hướng dẫn về Phòng ngừa chuẩn và các hướng dẫn phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện theo cơ quan và theo vị trí.
Các tiêu chuẩn về kiểm soát nhiễm khuẩn trong Bảng kiểm tra bệnh viện hàng năm
Nhiệm vụ chuyên môn về kiểm soát nhiễm khuẩn
Theo quy định tại Thông tư số 18/2009/TT-BYT ngày 14 tháng 10 năm 2009 về hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhiệm vụ chuyên môn về kiểm soát nhiễm khuẩn gồm 10 nội dung sau đây:
Chương trình vệ sinh tay nhân viên y tế
Thực hiện các quy định về vô khuẩn
Khử khuẩn, tiệt khuẩn dụng cụ y tế
Thực hiện các biện pháp phòng ngừa cách ly
Giám sát nhiễm khuẩn mắc phải trong cơ sở y tế
Vệ sinh môi trường và quản lý chất thải
Vệ sinh người bệnh
Vệ sinh an toàn thực phẩm
Quản lý và sử dụng đồ vải
Vệ sinh trong việc bảo quản, di chuyển thi thể khi người bệnh tử vong.
Các giải pháp chính tăng cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn
Triển khai chương trình Kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện có ý nghĩa thiết thực góp phần nâng cao chất lượng điều trị và nâng cao hiệu quả kinh tế trong y tế. Việc kiểm soát và dự phòng nhiễm khuẩn bệnh viện hiệu quả trở thành một tiêu chuẩn thiết yếu nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và an toàn người bệnh của các bệnh viện. Các biện pháp tăng cường kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện bao gồm:
Thiết lập hệ thống kiểm soát nhiễm khuẩn
Xây dựng các hướng dẫn, quy định cụ thể về kiểm soát nhiễm khuẩn
Giám sát tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện và các yếu tố nguy cơ
Đào tạo về thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn cho nhân viên y tế
Tuân thủ các hướng dẫn phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện và phòng ngừa cách ly
Thực hiện chương trình phòng ngừa phơi nhiễm nghề nghiệp cho nhân viên y tế.
Bảo đảm các điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện, hoá chất cho công tác kiểm soát nhiễm khuẩn.
Thiết lập hệ thống kiểm soát nhiễm khuẩn trong các bệnh viện
Hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn
Khoa/tổ kiểm soát nhiễm khuẩn
Mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn
Hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn:
Tổ chức:
Hội đồng (ban) kiểm soát nhiễm khuẩn do Giám đốc (Thủ trưởng) cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ra quyết định thành lập. Hội đồng bao gồm Chủ tịch, một Phó Chủ tịch, một Uỷ viên thường trực và các uỷ viên.
Chủ tịch Hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn là lãnh đạo của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Phó Chủ tịch Hội đồng hoặc Uỷ viên thường trực là Trưởng khoa kiểm soát nhiễm khuẩn hoặc Tổ trưởng tổ kiểm soát nhiễm khuẩn hay một lãnh đạo khoa, phòng có kinh nghiệm trong lĩnh vực kiểm soát nhiễm khuẩn.
Uỷ viên của Hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn là đại diện của các khoa lâm sàng và cận lâm sàng; các phòng Kế hoạch tổng hợp, phòng Điều dưỡng, phòng Hành chính quản trị, Phòng Tài chính kế toán, Phòng Tổ chức cán bộ, Phòng Vật tư thiết bị Y tế và các bộ phận liên quan khác.
Nhiệm vụ:
Xem xét, đề xuất, tư vấn cho Giám đốc (thủ trưởng) đơn vị xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định kỹ thuật chuyên môn về kiểm soát nhiễm khuẩn phù hợp với quy định của Bộ Y tế.
Tư vấn cho Giám đốc (thủ trưởng) đơn vị về kế hoạch phát triển công tác kiểm soát nhiễm khuẩn, phòng ngừa nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc y tế, dịch bệnh; tư vấn sửa chữa, thiết kế, xây dựng mới các công trình y tế trong đơn vị phù hợp với nguyên tắc kiểm soát nhiễm khuẩn.
Tổ chức huấn luyện, nghiên cứu khoa học, chỉ đạo tuyến và tuyên truyền thuộc về kiểm soát nhiễm khuẩn trong phạm vi đơn vị quản lý.
Phương thức hoạt động
Họp định kỳ (1 quý/ lần) hoặc đột xuất
Thư ký Hội đồng chuẩn bị nội dung họp, thảo luận và biểu quyết theo đa số
Có biên bản họp và trình giám đốc xem sét phê duyện những khuyến nghị của Hội đồng và gửi những khuyến nghị đó đến các cá nhân và đơn vị liên quan để nghiên cứu thực hiện.
Khoa/tổ kiểm soát nhiễm khuẩn
Tổ chức:
Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có từ 150 giường bệnh hoặc bệnh viện hạng II trở lên phải thành lập Khoa kiểm soát nhiễm khuẩn; nếu có dưới 150 giường bệnh thành lập Tổ kiểm soát nhiễm khuẩn; các phòng khám đa khoa và các trạm y tế cần có nhân viên phụ trách công tác kiểm soát nhiễm khuẩn.
Khoa kiểm soát nhiễm khuẩn tùy theo quy mô bệnh viện có các bộ phận sau: hành chính – giám sát; khử khuẩn – tiệt khuẩn; giặt là và các bộ phận khác do Giám đốc quyết định.
Lãnh đạo khoa (tổ): Có Trưởng khoa (tổ trưởng), các Phó trưởng khoa và Điều dưỡng trưởng khoa. Trưởng khoa (tổ trưởng) có trình độ đại học trở lên thuộc chuyên ngành y, điều dưỡng hoặc dược và được đào tạo về kiểm soát nhiễm khuẩn.
Nhiệm vụ:
Xây dựng kế hoạch kiểm soát nhiễm khuẩn định kỳ và hàng năm để trình Hội đồng (ban) Kiểm soát nhiễm khuẩn thẩm định trước khi Giám đốc (thủ trưởng) phê duyệt và tổ chức thực hiện.
Đầu mối xây dựng các quy định, quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn trên cơ sở các quy định, hướng dẫn chung của Bộ Y tế và trình Giám đốc (thủ trưởng) đơn vị phê duyệt và tổ chức thực hiện.
Đầu mối phối hợp với các khoa, phòng liên quan giám sát công tác kiểm soát nhiễm khuẩn
Kiểm tra, đôn đốc cán bộ, viên chức, hợp đồng lao động, giáo viên, học sinh, sinh viên, người bệnh, người nhà người bệnh và khách thực hiện đúng quy định kiểm soát nhiễm khuẩn trong công tác khám, chữa bệnh.
Tuyên truyền, huấn luyện, nghiên cứu khoa học, tham gia hợp tác quốc tế và chỉ đạo tuyến dưới về kiểm soát nhiễm khuẩn.
Quản lý, giám sát các hoạt động khử khuẩn, tiệt khuẩn, giặt là, cung cấp dụng cụ vô khuẩn, hoá chất sát khuẩn, khử khuẩn, đồ vải và vật tư tiêu hao phục vụ công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong toàn đơn vị.
Theo dõi, đánh giá, báo cáo phơi nhiễm và tai nạn rủi ro nghề nghiệp liên quan đến tác nhân vi sinh vật của thầy thuốc, nhân viên y tế.
Tham gia cùng Khoa vi sinh, Khoa dược và các khoa lâm sàng theo dõi vi khuẩn kháng thuốc và sử dụng kháng sinh hợp lý.
Phối hợp với các khoa, phòng, các thành viên mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn phát hiện, giải quyết các vấn đề liên quan tới công tác kiểm soát nhiễm khuẩn.
Mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn
Tổ chức: Gồm đại diện các khoa lâm sàng và cận lâm sàng; mỗi khoa cử ít nhất một bác sĩ hoặc một điều dưỡng, hộ sinh tham gia mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn hoạt động dưới sự chỉ đạo chuyên môn của Khoa (tổ)
kiểm soát nhiễm khuẩn. Các thành viên thường xuyên được huấn luyện cập nhật chuyên môn về kiểm soát nhiễm khuẩn.
Nhiệm vụ:
Tham gia, phối hợp tổ chức thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn tại đơn vị.
Tham gia kiểm tra, giám sát, đôn đốc các thầy thuốc, nhân viên tại đơn vị thực hiện các quy định, quy trình chuyên môn liên quan đến kiểm soát nhiễm khuẩn.
Tổ chức giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện
Mục đích giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện
Biết được tỉ lệ bệnh đang lưu hành và nhận biết những trường hợp có dịch
Đánh giá những biện pháp thực hiện trong chống nhiễm khuẩn
So sánh được tỉ lệ nhiễm khuẩn giữa các bệnh viện:
Thay đổi những thực hành sai
Các phương pháp giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện
Trong toàn bộ bệnh viện
Tại một số khoa trọng điểm
Trên một số nhóm bệnh có nguy cơ
Tổ chức giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện để có cơ sở dữ liệu về nhiễm khuẩn bệnh viện như tỷ lệ mắc nhiễm khuẩn bệnh viện, tác nhân gây bệnh, vi khuẩn kháng thuốc… Chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện tốt đưa những chuẩn mực về chất lượng chăm sóc vào trong những thực hành lâm sàng. Theo kết quả nghiên cứu của Mỹ về kiểm soát nhiễm khuẩn ( SENIC – Study on the Efficacy of Nosocomial Infection Control ) năm 1970 -1976 đã chứng minh rằng một chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện bao gồm giám sát có thể làm giảm 33% nhiễm khuẩn bệnh viện. Theo Điều 62 Luật Khám bệnh, chữa bệnh và Điều 5 Thông tư 18/2009/TT-BYT về tăng cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn các bệnh viện phải triển khai chương trình giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện và có cơ sở dữ liệu về tình hình người bệnh bị nhiễm khuẩn bệnh viện và báo cáo cho cơ quan quản lý khi có yêu cầu.
Giám sát là hoạt động chủ yếu cuả chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện và khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn. Giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện được định nghĩa là “ việc thu thập có hệ thống, liên tục; việc xử lý và phân tích những dữ kiện cần thiết nhằm triển khai, lập kế hoạch, và phổ biến kịp thời những dữ kiện này đến những người cần được biết ”.
Giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện là một trong những yếu tố quan trọng để cải thiện tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện. Nhân viên kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện thường phải dành hơn một nửa thời gian để tiến hành giám sát. Chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn phải xây dựng được một kế hoạch giám sát theo yêu cầu của bệnh viện mình. Giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện sẽ cung cấp những dữ kiện có ích để đánh giá tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện: nhận biết những bệnh nhân nhiễm khuẩn bệnh viện, xác định vị trí nhiễm khuẩn, những yếu tố góp phần vào nhiễm khuẩn. Từ đó giúp bệnh viện có kế hoạch can thiệp và đánh giá được hiệu quả của những can thiệp này. Giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện còn là tiền đề cho việc thực hiện các nghiên cứu về kiểm soát nhiễm khuẩn – Phương pháp sử dụng để xác định tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện cần dựa vào khả năng sẵn có của bệnh viện và của nguồn nhân lực của kiểm soát nhiễm khuẩn. Giám sát có thể hiệu quả hơn khi giám sát những khoa có nguy cơ có nhiễm khuẩn bệnh viện cao, những bệnh nhân có những yếu tố nguy cơ đặc biệt, hay những nhiễm khuẩn có nguy cơ tử vong cao và tốn nhiều kinh phí. Giám sát sẽ cung cấp những thông tin cần thiết về sự xuất hiện và phân bố của nhiễm khuẩn bệnh viện trong dân số được giám sát và những điều kiện hay sự kiện làm tăng hay giảm nhiễm khuẩn. Dữ liệu thu thập được phải tập hợp, phân tích và thông báo cho những người cần biết để có biện pháp thích hợp.
Chương trình giám sát cũng cần bao gồm chương trình kiểm soát kháng sinh. Cần đưa ra được những quy định chính sách sử dụng kháng sinh. Cần hạn chế những hoạt động tiếp thị của các hãng thuốc trong bệnh viện, đặc biệt tại các bệnh viện có đào tạo.
Đào tạo về kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện
Thầy thuốc, nhân viên của Khoa (tổ) kiểm soát nhiễm khuẩn phải được đào tạo chuyên khoa và thường xuyên cập nhật kiến thức, kỹ năng thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn.
Thầy thuốc, nhân viên của các sở khám bệnh, chữa bệnh phải được đào tạo về các quy trình kỹ thuật chuyên môn kiểm soát nhiễm khuẩn, sử dụng đúng và thành thạo, các phương tiện phòng hộ cá nhân.
Thực hiện các hướng dẫn phòng ngừa cách ly
Phòng ngừa chuẩn
Nguyên tắc: tất cả máu, dịch sinh học, các chất tiết, chất bài tiết (trừ mồ hôi) đều có nguy cơ lây bệnh truyền nhiễm. Phòng ngừa chuẩn áp dụng cho tất cả người bệnh trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, không tùy thuộc vào chẩn đoán và tình trạng nhiễm trùng của người bệnh. Phòng ngừa chuẩn là các thực hành cơ bản và tối thiểu được áp dụng mọi lúc, mọi nơi trong mọi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Việc áp dụng các biện pháp của Phòng ngừa chuẩn trong quá trình chăm sóc người bệnh dựa vào dự đoán của cán bộ y tế về bản chất của sự tác động qua lại giữa cán bộ y tế với người bệnh, khả năng phơi nhiễm với máu, dịch cơ thể và tác nhân gây bệnh, để lựa chọn các phương tiện và các thực hành thích hợp. Ví dụ: Trong đa số các trường hợp tiêm tĩnh mạch cho người bệnh thì mang găng tay là thực hành thiết yếu nhất; khi đặt nội khí quản cho người bệnh thì ngoài việc mang găng phải mang khẩu trang y tế, áo bảo hộ và nếu cần phải mang kính bảo hộ hoặc mặt nạ. Nội dung của các thực hành phòng ngừa chuẩn:
Vệ sinh tay: Vệ sinh tay là thành phần cơ bản của Phòng ngừa chuẩn và là biện pháp hiệu quả nhất trong nỗ lực kiểm soát sự lây truyền tác nhân gây bệnh trong các cơ sở khám, chữa bệnh. Những biện pháp cơ bản để cải thiện vệ sinh tay bao gồm: Cung cấp phương tiện rửa tay, đào tạo, giám sát tuân thủ, thông tin phản hồi cho nhân viên y tế.
Mang trang phục phòng hộ, bao gồm: Găng, khẩu trang, tạp dề; kính, mặt nạ. Việc sử dụng các trang phục phòng hộ phải căn cứ vào việc đánh giá nguy cơ và dự đoán khả năng và phương thức phơi nhiễm với máu, dịch sinh học của người bệnh mà nhân viên y tế có thể sử dụng một hoặc nhiều trang phục phòng hộ khi khám, điều trị và chăm sóc cho người bệnh.
Vệ sinh hô hấp: Áp dụng khi nghi ngờ hoặc xác định có nguy cơ phát tán tác nhân gây bệnh qua đường hô hấp như SARS, Cúm A-H5N1, Cúm AH1N1… Vệ sinh hô hấp áp dụng cho nhân viên y tế, người bệnh, người chăm sóc và người đến thăm người bệnh trong các cơ sở khám, chữa bệnh và là chìa khóa để ngăn ngừa sự phát tán các tác nhân lây bệnh đường hô hấp.
Xử lý dụng cụ y tế để dùng lại: Mọi dụng cụ y tế sau khi sử dụng đã nhiễm bẩn và nhiễm khuẩn. Nếu sử dụng lại phải phân loại và xử lý theo mục đích sử dụng, thực hiện đúng quy trình xử lý dụng cụ từ khâu khử nhiễm, làm sạch, khử khuẩn, tiệt khuẩn và bảo quản đúng cách; dụng cụ tiệt khuẩn phải đảm bảo vô khuẩn đến khi sử dụng cho người bệnh. Nhân viên khi tiếp xúc dụng cụ nhiễm khuẩn cần mang trang phục phòng hộ cá nhân thích hợp.
Tiêm an toàn và xử trí tai nạn rủi ro nghề nghiệp: Được bổ sung thêm vào Phòng ngừa chuẩn nhằm giảm nguy cơ nhiễm chéo cho người bệnh và nguy cơ phơi nhiễm nghề nghiệp đường máu cho nhân viên y tế.
Xử lý đồ vải: Xử lý an toàn đồ vải để kiểm soát nguy cơ lây truyền bệnh cho nhân viên y tế trong quá trình thu gom, vận chuyển, xử lý và an toàn cho người bệnh sử dụng.
Vệ sinh môi trường: Môi trường các cơ sở khám, chữa bệnh, các bề mặt và các đồ vật trong các cơ sở y tế là nguồn chứa các tác nhân gây bệnh, nguồn phát tán tác nhân gây bệnh truyền nhiễm. Môi trường bệnh viện phải được làm sạch, đảm bảo an toàn cho cả người bệnh và nhân viên y tế.
Xử lý chất thải rắn y tế: Chất thải rắn y tế là nguồn chứa tác nhân vi sinh vật gây bệnh, tác động tiềm tàng đến sức khỏe, ảnh hưởng tới môi trường nước và không khí. Đồng thời, rủi ro do vật sắc nhọn là nguy cơ bị nhiễm tác nhân gây bệnh đường máu cho nhân viên y tế, người bệnh và cộng đồng. Vì vậy, chất thải rắn y tế phải được thu gom, xử lý và tiêu hủy an toàn, đặc biệt quan tâm xử lý an toàn chất thải sắc nhọn sau tiêm.
Lây truyền qua tiếp xúc (Contact transmission)
Lây truyền qua tiếp xúc xảy ra do sự tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp giữa mô/tổ chức của cơ thể (bao gồm cả da và niêm mạc ) với da/ niêm mạc hoặc các phương tiện vật liệu bị ô nhiễm. Đây là đường lây truyền chủ yếu nhất làm lan truyền vi sinh vật từ người bệnh này qua người bệnh khác hay từ nhân viên y tế sang người bệnh và ngược lại. Tác nhân thường lây truyền qua đường này gồm những vi sinh vật đa kháng, các nhiễm trùng da và đường ruột như MRSA, Herpes Simplex, chốc, ghẻ, chấy rận, đậu mùa, zona, nhiễm cúm (kể cả H5N1), SARS.
Lây truyền qua giọt bắn (Droplet transmission)
Lây truyền qua giọt bắn xảy ra do hít phải những giọt phân tử hô hấp chứa các vi sinh vật gây bệnh có kích thước >= 5m tạo ra khi ho, hắt hơi, nói chuyện hoặc khi thực hiện một số thủ thuật như hút rửa, nội soi khí/phế quản. Lây truyền qua giọt bắn cần sự tiếp xúc gần giữa người bệnh đường hô hấp và người nhận bởi vì những giọt bắn chứa vi sinh vật thường chỉ di chuyển một khoảng ngắn trong không khí (
Lây truyền qua đường không khí (Airborne transmission)
Lây truyền qua đường không khí xảy ra do hít phải những giọt hô hấp trong không khí chứa tác nhân nhiễm khuẩn có kích thước nhỏ hơn
Bảo đảm các điều kiện cho công tác kiểm soát nhiễm khuẩn
Cơ sở vật chất
Được thiết kế và trang bị cơ sở vật chất để bảo đảm yêu cầu kiểm soát nhiễm khuẩn. Khi xây mới hoặc sửa chữa cải tạo có sự tham gia tư vấn của khoa hoặc cán bộ làm công tác kiểm soát nhiễm khuẩn.
Có bộ phận (đơn vị) khử khuẩn – tiệt khuẩn tập trung đạt tiêu chuẩn: Thiết kế một chiều; ngăn cách rõ ba khu vực nhiễm khuẩn, sạch và vô khuẩn; dựa vào phân hạng và phân cấp điều trị để trang bị các phương tiện xử lý dụng cụ phù hợp như: máy rửa – khử khuẩn, máy hấp ướt, máy tiệt khuẩn nhiệt độ thấp, máy sấy khô, đóng gói dụng cụ; các phương tiện làm sạch, hoá chất, các test kiểm tra chất lượng tiệt khuẩn; các buồng, tủ, giá kê để bảo quản dụng cụ tiệt khuẩn.
Có nhà giặt thiết kế một chiều, đủ trang bị và phương tiện như máy giặt, máy sấy, phương tiện là (ủi) đồ vải, xe vận chuyển đồ vải bẩn, sạch; bể (thùng) chứa hoá chất khử khuẩn để ngâm đồ vải nhiễm khuẩn, tủ lưu giữ đồ vải; xà phòng giặt, hóa chất khử khuẩn. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thể hợp đồng với Công ty có chức năng giặt khử khuẩn đồ vải y tế để bảo đảm việc giặt và cung cấp đồ vải đáp ứng yêu cầu phục vụ người bệnh và chuyên môn.
Có cơ sở hạ tầng để bảo đảm xử lý an toàn chất thải lỏng, chất thải rắn và chất thải khí y tế theo Quy định về quản lý chất thải y tế.
Các khoa phải có đủ buồng tắm, buồng vệ sinh, nước sạch, phương tiện rửa cho người bệnh, người nhà và nhân viên y tế.
Mỗi khoa phải có ít nhất một buồng để đồ bẩn và xử lý dụng cụ y tế.
Buồng phẫu thuật và buồng chăm sóc đặc biệt được trang bị hệ thống thông khí, lọc khí thích hợp, đảm bảo yêu cầu vô khuẩn.
Khoa lâm sàng phải có ít nhất một buồng cách ly được trang bị các phương tiện cách ly theo hướng dẫn của Bộ Y tế để cách ly người bệnh có nguy cơ phát tán tác nhân gây bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Khoa lâm sàng phải có ít nhất một buồng thủ thuật có đủ trang thiết bị, thiết kế đáp ứng yêu cầu kiểm soát nhiễm khuẩn: có bồn rửa tay, vòi nước, nước sạch, xà phòng hoặc dung dịch rửa tay, khăn lau tay, bàn chải chà tay, bàn làm thủ thuật, tủ đựng dụng cụ vô khuẩn, thùng đựng chất thải.
Phòng xét nghiệm phải bảo đảm điều kiện an toàn sinh học phù hợp với từng cấp độ và chỉ được tiến hành xét nghiệm trong phạm vi chuyên môn theo quy định của Luật về phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
Khoa truyền nhiễm phải có đủ phương tiện phòng ngừa lây truyền bệnh và có khoảng cách an toàn với các khoa, phòng khác và khu dân cư theo quy định của pháp luật về phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
Cơ sở vật chất chế biến, phân phối thực phẩm trong bệnh viện phải được xây dựng và thiết kế theo đúng các quy định pháp luật về vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Trang thiết bị và phương tiện
Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải được trang bị đủ các trang thiết bị và phương tiện dưới đây để bảo đảm yêu cầu kiểm soát nhiễm khuẩn:
Bảo đảm các phương tiện vệ sinh môi trường đầy đủ và phù hợp:
Phương tiện rửa tay: bồn rửa tay, phương tiện sát khuẩn tay, khăn lau
tay sạch dùng một lần và hóa chất rửa tay.
Có đủ phương tiện vệ sinh chuyên dụng bảo đảm cho công việc vệ
sinh cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hiệu quả.
Trường hợp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hợp đồng với Công ty cung cấp dịch vụ vệ sinh công nghiệp thì hợp đồng phải xác định rõ yêu cầu về trang thiết bị, hóa chất, tiêu chuẩn vệ sinh, quy trình vệ sinh, đào tạo nhân viên vệ sinh theo chương trình tài liệu của Bộ Y tế và kiểm tra đánh giá chất lượng.
Có đủ phương tiện thu gom, vận chuyển, lưu giữ chất thải. Thùng, túi lưu giữ chất thải phải bảo đảm đủ số lượng, chất lượng và đúng mầu quy định.
Khoa kiểm soát nhiễm khuẩn được trang bị các phương tiện văn phòng để phục vụ công tác giám sát, đào tạo như máy vi tính, máy in; các phương tiện khác phục vụ công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng môi trường và kiểm soát nhiễm khuẩn.
Cơ sở chế biến thực phẩm và phân phối xuất ăn trong bệnh viện phải có đầy đủ trang thiết bị và phương tiện theo đúng các quy định pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Nhân lực chuyên trách kiểm soát nhiễm khuẩn
Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải bảo đảm nhân lực cho Khoa (tổ) kiểm soát nhiễm khuẩn hoạt động. Ngoài nhân lực cho các bộ phận như khử khuẩn, tiệt khuẩn, giặt là, bộ phận giám sát nhiễm khuẩn phải bảo đảm tối thiểu 01 nhân lực được đào tạo về kiểm soát nhiễm khuẩn/150 giường bệnh.
Trách nhiệm triển khai thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn
Trách nhiệm của giám đốc (thủ trưởng) cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Chỉ đạo và tổ chức thực hiện Thông tư hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Xây dựng và ban hành các qui định cụ thể về các kỹ thuật chuyên môn kiểm soát nhiễm khuẩn phù hợp với thực tế của đơn vị theo hướng dẫn của Thông tư này.
Đầu tư kinh phí thường xuyên hàng năm đủ cho công tác kiểm soát nhiễm khuẩn.
Bảo đảm đủ nhân lực, phương tiện, thiết bị, hoá chất, vật tư cho việc thực hành chuyên môn, kiểm soát nhiễm khuẩn, quản lý chất thải và vệ sinh, bảo đảm cơ sở khám bệnh, chữa bệnh xanh, sạch, đẹp.
Chỉ đạo việc tổ chức huấn luyện, đào tạo, nghiên cứu khoa học, kiểm tra, giám sát thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn.
Bảo đảm an toàn và phòng ngừa lây bệnh truyền nhiễm cho nhân viên y tế và cho người bệnh, nhất là trong các tình huống có dịch bệnh.
Phát động phong trào thi đua và thực hiện khen thưởng, kỷ luật về công tác kiểm soát nhiễm khuẩn.
Trách nhiệm của hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn
Tư vấn cho Giám đốc (thủ trưởng) cơ sở khám bệnh, chữa bệnh về các hoạt động kiểm soát nhiễm khuẩn.
Xem xét các đề xuất của Khoa (tổ) kiểm soát nhiễm khuẩn và thành viên Hội đồng Kiểm soát nhiễm khuẩn để tham mưu cho Giám đốc (thủ trưởng) cơ sở khám bệnh, chữa bệnh về kế hoạch, bổ sung sửa đổi các quy định, quy trình và các vấn đề liên quan đến kiểm soát nhiễm khuẩn. 3. Đưa ra những ý kiến và đề xuất liên quan đến kiểm soát nhiễm khuẩn khi được Giám đốc (thủ trưởng) cơ sở khám bệnh, chữa bệnh yêu cầu.
Trách nhiệm của các phòng chức năng
Phòng Điều dưỡng, phòng Kế hoạch tổng hợp và các phòng liên quan phối hợp với Khoa (tổ) kiểm soát nhiễm khuẩn xây dựng các quy định, quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn và thực hiện kiểm tra, giám sát liên quan đến công tác kiểm soát nhiễm khuẩn.
Trách nhiệm của các trưởng khoa trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
Tổ chức thực hiện các quy định, quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn.
Tổ chức hướng dẫn người bệnh, người nhà người bệnh, khách đến thăm thực hiện các quy định kiểm soát nhiễm khuẩn người bệnh, người nhà người bệnh và khách tới thăm.
Phối hợp với Khoa (tổ) kiểm soát nhiễm khuẩn tổ chức huấn luyện, giám sát, đánh giá công tác kiểm soát nhiễm khuẩn tại khoa.
Phát hiện và thông báo kịp thời các trường hợp nhiễm khuẩn mắc phải tại khoa cho Khoa (tổ) kiểm soát nhiễm khuẩn và Giám đốc (thủ trưởng) cơ sở khám, chữa bệnh. Phối hợp với Khoa (tổ) kiểm soát nhiễm khuẩn tiến hành giám sát, xác định các trường hợp dịch bệnh, nhiễm khuẩn bệnh viện và vi khuẩn kháng thuốc tại khoa.
Trách nhiệm của các điều dưỡng trưởng khoa
Kiểm tra đôn đốc thầy thuốc, nhân viên y tế, người bệnh, người nhà, học sinh, sinh viên, cán bộ y tế đến học tập tuân thủ quy định, quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn trong chăm sóc và điều trị.
Hướng dẫn, kiểm tra việc tuân thủ rửa tay của thầy thuốc, nhân viên y tế, người bệnh, người nhà người bệnh và khách tới thăm.
Quản lý, hướng dẫn, giám sát sử dụng các phương tiện phòng hộ cá nhân, bảo đảm đúng mục đích, đúng đối tượng và hiệu quả kiểm soát nhiễm khuẩn.
Phân công điều dưỡng hoặc hộ sinh tham gia mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn.
Trách nhiệm của khoa vi sinh (xét nghiệm)
Phối hợp với Khoa (tổ) kiểm soát nhiễm khuẩn thực hiện điều tra giám sát nhiễm khuẩn mắc phải và môi trường.
Thông báo kịp thời cho Khoa (tổ) kiểm soát nhiễm khuẩn và khoa lâm sàng về kết quả nuôi cấy vi khuẩn và tình hình kháng thuốc của các vi khuẩn gây bệnh theo quy định.
Trách nhiệm của khoa dược
Cung cấp thông tin về hoá chất khử khuẩn, thuốc kháng sinh và tình hình sử dụng thuốc kháng sinh an toàn hợp lý của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho Khoa (tổ) kiểm soát nhiễm khuẩn.
Phối hợp cùng Khoa (tổ) kiểm soát nhiễm khuẩn đề xuất mua sắm, cung cấp và sử dụng hoá chất, vật tư tiêu hao đáp ứng công tác kiểm soát nhiễm khuẩn.
Trách nhiệm của thầy thuốc, nhân viên y tế, giáo viên, học sinh, sinh viên thực tập tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
Tham gia các lớp huấn luyện, bồi dưỡng kiến thức về kiểm soát nhiễm khuẩn.
Thực hiện đúng các quy trình, quy định về kiểm soát nhiễm khuẩn.
Trách nhiệm của người bệnh, người nhà người bệnh
Thực hiện đúng các quy định về giờ thăm, biện pháp cách ly theo quy định và hướng dẫn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Thực hiện các quy định về vệ sinh cá nhân và vệ sinh bệnh viện, phân loại chất thải và các quy định khác của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Người mắc, người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A và một số bệnh thuộc nhóm B do Bộ trưởng Bộ Y tế quy định phải tuân thủ chế độ điều trị, cách ly, di chuyển hoặc ra viện theo quy định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.