Haemophilus
Giống Haemophilus thuộc họ Pasteurellaceae, gồm những trực khuẩn nhỏ, Gram âm, không di động, không sinh nha bào, có vỏ liên quan mật thiết với tính chất gây bệnh. Môi trường nuôi cấy bắt buộc phải có một hoặc cả hai yếu tố phát triển X và V (X: hematin, V: nicotinamidadenin dinucleotid = NAD). Thạch chocolat có cả hai yếu tố này và thích hợp cho sự phát triển của những Haemophilus đòi hỏi cả hai yếu tố X và V. Các Haemophilus đòi hỏi cả hai yếu tố X và V chỉ có thể phát triển trên môi trường thạch máu nếu cho thêm yếu tố V bên ngoài vào.
Các Haemophilus ký sinh bắt buộc trên niêm mạc đường hô hấp hoặc đôi khi ở đường sinh dục của người hay động vật. Thuộc nhóm này có nhiều thành viên, ở đây chỉ giới thiệu Haemophilus influenzae, tác nhân chủ yếu gây nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ nhỏ và Haemophilus ducreyi, tác nhân gây bệnh hạ cam.
Hemophilus influenzae
Haemophilus influenzae do Richard Pfeiffer phân lập lần đầu tiên từ một bệnh nhân bị chết trong vụ dịch cúm lớn năm 1892 (nên còn gọi là trực khuẩn Pfeiffer). Từ đó trở đi, trong một khoảng thời gian dài, người ta tin rằng nó chính là căn nguyên gây ra bệnh cúm và đặt tên là Bacterium influenzae. Năm 1933, khi phát hiện ra vius cúm thì căn nguyên của bệnh cúm cũng như vai trò của B. influenzae mới được làm sáng tỏ: virus cúm gây ra bệnh cúm, còn B. influenzae là vi khuẩn “ăn theo’’ (second invader) sau khi các tế bào niêm mạc đường hô hấp đã bị tổn thương nặng nề bởi virus cúm.
Về danh pháp, thuật ngữ “Bacterium influenzae” do Lehmann và Neumann đề xuất năm 1896. Năm 1917, Winslow và cộng sự, trên cơ sở những hiểu biết mới về B.influenzae, đã chuyển chúng sang giống Haemophilus, và từ đó đến nay, chúng mang tên Haemophilus influenzae.
Đặc điểm sinh vật học
Là vi khuẩn đa hình thái, Gram âm, không di động, không sinh nha bào. Trong bệnh phẩm vi khuẩn thường có vỏ polysaccharide mang kháng nguyên đặc hiệu typ. Trong khi cấy truyền trên môi trường nhân tạo thì vi khuẩn mất vỏ. Vi khuẩn hiếu khí, đòi hỏi CO2 (5 – 10%), nhiệt độ thích hợp là 370C, pH thích hợp 7,6 – 7,8. Vi khuẩn chỉ mọc được trên môi trường thạch có cả yếu tố X và V (mọc tốt trên môi trường thạch chocolat), khuẩn lạc nhỏ, trong, mặt nhẵn (dạng S), đường kính 0,5-0,8 mm, sau khi cấy truyền các khuẩn lạc trở thành dạng R; không gây tan máu trên thạch máu.
Trong môi trường nuôi cấy H.influenzae, yếu tố V có thể thay thế bằng NAD hoặc NADP, yếu tố X có thể thay thế bằng Hemin hoặc Hematin. Cũng có thể thay thế yếu tố V bằng cách cấy tụ cầu vàng trên môi trường thạch máu, các khuẩn lạc trong, nhỏ của H.influenzae mọc quanh đường cấy tụ cầu khuẩn (do tụ cầu vàng tiết ra yếu tố V), đó là thử nghiệm “vệ tinh” (Satellitism), được sử dụng khi không có yếu tố V trong môi trường nuôi cấy H. influenzae.
H.influenzae lên men đường glucose, không lên men đường lactose và mannit.
H.influenzae đề kháng rất kém với các yếu tố ngoại cảnh. Trong bệnh phẩm, chúng chết nhanh chóng nếu bị ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp, để khô hay lạnh. H.influenzae bị các chất sát khuẩn thông thường giết chết một cách dễ dàng.
Khả năng gây bệnh ở người
H.influenzae là loài vi khuẩn ký sinh bình thường ở đường hô hấp, thường phân lập được ở niêm mạc mũi họng người lành với tỷ lệ khoảng 25%. Nó có thể gây nên các nhiễm khuẩn khác nhau:
Nhiễm khuẩn đường hô hấp: H.influenzae typ b là một trong các tác nhân chủ yếu gây các nhiễm khuẩn khác nhau của đường hô hấp, thường gặp ở trẻ nhỏ tuổi. Bệnh do H.influenzae thường là thứ phát (sau sởi, cúm) gồm: viêm đường hô hấp trên (thanh quản, tai giữa, xoang), viêm đường hô hấp dưới (viêm phế quản cấp và mạn tính, viêm phổi). Viêm thanh quản do H.influenzae typ b là chứng bệnh ít gặp nhưng rất nghiêm trọng.
Viêm màng não mủ ở trẻ em: viêm màng não do H.influenzae là một bệnh nặng và có tính chất cấp tính, cần được chẩn đoán và điều trị ngay.
Ngoài ra H.influenzae còn gây nhiễm khuẩn huyết, viêm nội tâm mạc (hiếm), viêm niệu đạo và các nhiễm trùng sinh dục (âm đạo, cổ tử cung, tuyến Bartholin, vòi trứng).
Chẩn đoán vi sinh vật
Bệnh phẩm: tuỳ theo bệnh cảnh lâm sàng mà lấy bệnh phẩm khác nhau. Bệnh phẩm có thể là đàm, chất nhầy mũi họng, chất dịch khí quản, phế quản hoặc dịch não tủy, mủ…
Chẩn đoán trực tiếp
Soi tươi, nhuộm gram đối với dịch não tuỷ thấy có nhiều bạch cầu đa nhân và vi khuẩn khuẩn gram âm đa hình thái.
Tìm kháng nguyên vỏ typ b trong bệnh phẩm: để chẩn đoán nhanh các nhiễm trùng do H.influenzae typ b gây ra. Dùng kỹ thuật miễn dịch để phát hiện kháng nguyên typ b trong dịch não tuỷ, máu và nước tiểu. Các phương pháp miễn dịch được áp dụng là miễn dịch đối lưu, ngưng kết thụ động, đồng ngưng kết và ELISA với kháng thể đơn dòng.
Tìm ADN: dùng một đoạn ADN mẫu đánh dấu phóng xạ hoặc dùng kỹ thuật khuếch đại gen (PCR: polymerase chain reaction) để tìm đoạn ADN đặc trưng của H.influenzae trong bệnh phẩm.
Nuôi cấy
Nuôi cấy bệnh phẩm trên môi trường thạch chocolat, ủ ở bình kín chứa 10% CO2. Xác định H. influenzae bằng thử nghiệm “vệ tinh” với tụ cầu và thư nghiệm với các yếu tố X và V.
Phòng bệnh và điều trị
Phòng bệnh
Phòng bệnh không đặc hiệu: viêm màng não do H.influenzae typ b là một bệnh lây, bệnh nhân cần phải được cách ly. Người lành tiếp xúc với bệnh nhân phải uống kháng sinh dự phòng (Rifampicin).
Phòng bệnh đặc hiệu: dùng vaccine chứa polysaccharide vỏ của H.influenzae typ b (Hib).
Điều trị
Điều trị các nhiễm trùng do H.influenzae cần phải dựa vào kháng sinh đồ. Trong khi chưa có kết quả kháng sinh đồ hoặc khi không phân lập được vi khuẩn, chloramphenicol được ưu tiên lựa chọn. Viêm màng não cần dùng cephalosporin thế hệ 3.
Haemophilus ducreyi (trực khuẩn hạ cam)
Được Ducreyi phát hiện năm 1889 trong mủ mụn loét ở cơ quan sinh dục của bệnh nhân mắc bệnh hạ cam, vì thế được gọi là trực khuẩn hạ cam.
Vi khuẩn có ít ở chỗ tổn thương, phải phân lập trên môi trường có 20 – 30 % máu tươi, vi khuẩn chỉ cần yếu tố X. Bệnh nhân mắc bệnh hạ cam có phản ứng với hỗn dịch vi khuẩn bị giết chết tiêm nội bì. Phản ứng thường xuất hiện vào ngày thứ 8 và tồn tại rất lâu, có giá trị hổ trợ chẩn đoán.
Bệnh lây qua đường sinh dục nên dự phòng chủ yếu là quan hệ tình dục hợp vệ sinh và không quan hệ với nhiều người. Chữa bệnh bằng kháng sinh như ampicillin, chloramphenicol, bactrim…
Bordetella pertussis (trực khuẩn ho gà )
Trực khuẩn ho gà thuộc giống Bordetella, họ Alcaligenaceae.
Đặc điểm sinh vật học
B.pertussis hình trực khuẩn rất nho, kích thước 0,5-0,8 mm x 0,2-0,3 mm, Gram âm, không di động, không sinh nha bào, có thể có vỏ, vi khuẩn hiếu khí. Muốn phân lập từ bệnh phẩm phải có môi trường đặc biệt, đó là môi trường Bordet – Gengou (môi trường chứa khoai tây, glycerol và 15-20% máu), vi khuẩn mọc chậm sau 2 – 4 ngày, khuẩn lạc nhỏ, tròn, lồi, xám nhạt như xà cừ hoặc có ánh kim loại (giống như giọt thủy ngân), xung quanh có vòng tan máu hẹp. Catalase âm tính, Oxydase dương tính, Urease âm tính. Trong quá trình nuôi cấy trên môi trường nhân tạo, trực khuẩn ho gà biến dị từ dạng S sang dạng R. Hiện tượng này được chia làm 4 pha :
Pha I: Tương ứng với khuẩn lạc dạng S, vi khuẩn hình bầu dục, có vỏ, đứng riêng rẽ hoặc từng đôi, ít khi thành chuỗi, có độc lực, có kháng nguyên đặc hiệu của pha I là những kháng nguyên mạnh tạo được miễn dịch đối với bệnh ho gà.
Pha IV : Tương ứng với khuẩn lạc dạng R, vi khuẩn hình sợi t o hơn và hay xếp thành chuỗi ngắn, không có vỏ, không có độc lực, mất kháng nguyên pha I.
Pha II và pha III: là những giai đoạn trung gian
Sự biến đổi pha có ý nghĩa quan trọng trong sản xuất vaccine. Muốn điều chế vaccine tốt cần phải dùng vi khuẩn ở pha I.
Trực khuẩn ho gà sản xuất các yếu tố làm thành độc lực và có vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh:
Độc tố ho gà: bản chất protein, do vi khuẩn ở pha I tiết ra, làm tăng lượng AMP vòng dẫn đến sự tăng tiết dịch và chất nhầy đường hô hấp (triệu chứng đặc trưng của cơn ho trong bệnh ho gà). Kháng thể kháng độc tố ho gà có vai trò bảo vệ chống nhiễm trùng.
Độc tố Adenylate cyclase: có thể xâm nhập vào tế bào đường hô hấp làm tăng tiết AMP vòng, ức chế hiện tượng hoá hướng động bạch cầu đa nhân trung tính và ức chế hiện tượng thực bào. Độc tố này có vai trò bảo vệ vi khuẩn trong giai đoạn sớm của bệnh.
Độc tố tế bào khí quản (tracheal cytotoxin): gây tổn thương đặc hiệu các tế bào lông chuyển của biểu mô đường hô hấp.
Độc tố không chịu nhiệt và nội độc tố (lipopolysaccharide): vai trò sinh bệnh không rõ.
Kháng nguyên thân: chịu nhiệt, còn gọi là ngưng kết nguyên, kháng nguyên này chung cho cả giống Bordetella.
Khả năng gây bệnh ở người
B.pertussis gây bệnh ho gà, thường gặp ở trẻ em, rất dễ lây và gây thành dịch.
Bệnh ho gà lây trực tiếp qua đường hô hấp, lây nhất ở thời kỳ đầu của bệnh. Vi khuẩn phát triển ở liên bào đường hô hấp, không vào máu. Vi khuẩn giải phóng các độc tố gây thương tổn đường hô hấp và gây nên các dấu hiệu toàn thân của bệnh ho gà.
Bệnh ho gà là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính ở đường hô hấp, làm viêm long đường hô hấp và xuất hiện những cơn ho đặc biệt, gây những biến chứng phổi và não, ảnh hưởng tới sự phát triển trí tuệ của trẻ, nhất là ở trẻ sơ sinh.
Bệnh ho gà xảy ra quanh năm, thường gặp ở trẻ mới đẻ đến 5 tuổi. Tử vong nhiều nhất là ở trẻ em dưới 1 tuổi. Bệnh có thể gặp ở người lớn và chỉ gây ho dai dẳng không thành cơn rõ rệt. Ngày nay, nhờ có vaccine tốt tỷ lệ mắc bệnh ho gà đã giảm rất nhiều.
Chẩn đoán vi sinh vật
Chẩn đoán trực tiếp
Chủ yếu là phân lập vi khuẩn. Có nhiều cách lấy bệnh phẩm, tốt nhất là lấy bệnh phẩm ở thời kỳ đầu của bệnh. Lấy bệnh phẩm ở họng mũi bằng tăm bông mềm và đàn hồi qua đường mũi, cấy vào môi trường Bordet-Gengou ngay tại giường bệnh nhân. Có thể dùng một dĩa môi trường mở ra và để cách miệng bệnh nhân 10cm hứng nước bọt bắn ra trong cơn ho không kích thích khoảng 15 giây. Để tủ ấm 370C/ 2-3 ngày. Xác định khuẩn lạc điển hình, nhuộm gram để xác định hình thể vi khuẩn và làm phản ứng ngưng kết với kháng huyết thanh đặc hiệu.
Ngoài ra, có thể dùng kháng thể đơn dòng để tìm độc tố ho gà trong bệnh phẩm, dùng kỹ thuật khuếch đại gen (PCR: Polymerase Chain Reaction) để tìm đoạn ADN đặc hiệu của vi khuẩn.
Chẩn đoán gián tiếp
Tìm kháng thể kháng độc tố ho gà trong huyết thanh bệnh nhân.
Phòng bệnh và điều trị
Phòng bệnh
Phòng bệnh không đặc hiệu:
Phát hiện bệnh sớm và chữa trị kịp thời, cách ly bệnh nhân và hạn chế tiếp xúc nhất là những bệnh nhân đang ở thời kỳ đầu của bệnh.
Phòng bệnh đặc hiệu
Vaccine ho gà hiện nay là vaccine chết, được làm từ vi khuẩn ho gà ở pha I. Dùng vaccine ho gà tiêm đồng loạt cho trẻ em dưới 1 tuổi để gây miễn dịch cơ bản. Tiêm nhắc lại sau 1 năm để củng cố miễn dịch và sau 5 năm tiêm nhắc lại một lần nữa. Vaccine phòng bệnh ho gà là một trong 6 loại vaccine bắt buộc trong chương trình tiêm chủng mở rộng, thường dùng dưới dạng 1 vaccine hỗn hợp Bạch hầu-Uốn ván-Ho gà (DTC: Diphterie-Tetanie-Cough). Ngoài ra có thể dùng huyết thanh miễn dịch hoặc globulin miễn dịch người để phòng bệnh và chữa bệnh ho gà ở trẻ còn bú.
Điều trị
Phải phát hiện sớm để cách ly và điều trị ngay bằng kháng sinh. Liệu pháp kháng sinh không rút ngắn được giai đoạn kịch phát nhưng loại trừ được vi khuẩn gây bệnh, giảm lây lan, dự phòng bội nhiễm. Kháng sinh chọn lọc là erythromycin.