Bệnh giun soắn khá phổ biến trên thế giới, phân bố ở khắp các châu lục: Âu, Mĩ, Phi, Á, Úc. Chỉ riêng ở Mĩ, có 25 triệu người mắc. Ở châu Âu, nước Đức có tỉ lệ mắc cao hơn các nước khác. Giun soắn hình thành những ổ bệnh thiên nhiên, tiềm tàng, lưu hành giữa động vật với động vật. Các nước láng giềng với Việt Nam: Lào, Campuchia, Trung Quốc đều có bệnh này. Năm 1967, ở Việt Nam đã phát hiện ổ bệnh thiên nhiên giun soắn ở một số địa phương thuộc vùng Tây Bắc. Bệnh giun soắn cấp tính, nguy hiểm, dễ tử vong, có thể phát triển thành dịch khi tại địa phương có sẵn động vật mắc bệnh và có tập quán ăn thịt sống.
Đặc điểm hình thể.
Giun trưởng thành:
Giun soắn trưởng thành có hình thể rất nhỏ, mắt thường khó nhận thấy. Kích thước giun đực: 1,2 – 1,8 x 0,004 mm, giun cái: 3 – 4 x 0,06 mm. Giun cái có âm môn ở nửa trước thân mình, đầu bám chặt vào màng ruột, nửa thân gắn vào nếp
Hình 10.19: Giun soắn T.spiralis trưởng thành và ấu trùng
nhăn ruột non. Khi giun cái đẻ, ấu trùng vào thẳng màng nhầy ruột non. Giun soắn đẻ ra ấu trùng, nhưng vẫn có thể quan sát được trứng giun soắn ở trong cơ thể giun cái, kích thước: 30 x 40 µm. Giun đực đuôi cong, có 2 thể phụ hình nón ở phía đuôi, dùng để giữ giun cái lúc giao phối.
Ấu trùng:
Lúc đầu nhỏ, kích thước 100 x 6 µm, có thể chui qua mao mạch. Khi ấu trùng vào tổ chức cơ, lớn dần, kích thước: 900 – 1300 x 35 – 49 µm, thường cuộn lại như vòng soắn lò xo trong một nang hình quả cau ở tổ chức cơ vân. Trong một nang có thể có 2 – 3 ấu trùng.
Hình 10.20: Nang ấu trùng giun soắn T.spiralis (ở trong mô cơ).
Hình 10.21: Ấu trùng giun soắn T.spiralis thoát khỏi nang.
Đặc điểm sinh học.
Giun soắn trưởng thành kí sinh ở thành ruột, ở đoạn cuối ruột non, cũng có khi ở ruột già của chuột, lợn, cầy, cáo, hổ, gấu, báo… và người.
Hình 10.22: Vòng đời sinh học của giun soắn T.spiralis.
Giun đực sau khi giao phối sẽ bị tống ra khỏi đường ruột. Giun cái đẻ ra ấu trùng. Trung bình một giun cái đẻ 1.500 ấu trùng. Ấu trùng chui qua thành ruột vào mạch bạch huyết, rồi tới tim phải, theo hệ tuần hoàn, chu du khắp cơ thể. Cuối cùng tới cư trú ở tổ chức cơ. Những cơ thường có nhiều ấu trùng giun soắn: cơ hoành, cơ nhai, cơ liên sườn, cơ thanh quản, cơ thanh quản, cơ lưỡi, cơ mắt, cơ gáy, cơ ngực, cơ mông… là những cơ vân. Lâu dần vỏ nang vôi hoá, ấu trùng ở bên trong không phát triển nhưng sống được rất lâu.
Người hoặc vật vừa là vật chủ chính, vừa là vật chủ phụ của giun soắn. Khi vật chủ khác ăn phải thịt có nang ấu trùng còn sống, vào đến ruột, nang ấu trùng bị vỡ ra do tác dụng của dịch tiêu hoá, ấu trùng thoát ra khỏi nang, chui vào niêm mạc ruột, phát triển thành giun trưởng thành, tiếp tục sinh sản.
Thời gian phát triển qua từng giai đoạn phát triển của vòng đời:
Từ khi ấu trùng vào vật chủ phát triển thành giun trưởng thành là 2 ngày.
Bắt đầu sinh sản: ngày thứ 4.
Ấu trùng vào cơ: ngày thứ 7.
Ấu trùng bắt đầu cuộn, có khả năng lây nhiễm: ngày thứ 17 – 30.
Ấu trùng tạo thành nang: ngày thứ 30 – 60.
Nang kết vôi: tháng thứ 14.
Hạn định đời sống của giun trưởng thành: 6 – 7 tuần.
Ấu trùng có thể sống và tồn tại trong các nang ở tổ chức cơ tới 25 năm hoặc hơn, nhưng không bao giờ phát triển thành giun trưởng thành ở đó.
Vai trò y học.
Bệnh do giun trưởng thành:
Tương ứng với giai đoạn khởi phát của bệnh, là lúc giun đực, giun cái giao phối và kí sinh ở thành ruột, có thể gây những triệu chứng đau bụng, đi lỏng, buồn nôn, nôn, sốt, giống như bị ngộ độc thức ăn. Biểu hiện lâm sàng giai đoạn này nặng hay nhẹ tùy thuộc vào số lượng ấu trùng bị nhiễm nhiều hay ít.
Bệnh do ấu trùng:
Tương ứng với giai đoạn toàn phát của bệnh, là lúc ấu trùng vào máu chu du khắp cơ thể, tới cư trú ở các cơ vân. Triệu chứng lâm sàng thời kì này rầm rộ, đa dạng, xuất hiện các hội chứng:
Hội chứng nhiễm trùng, nhiễm độc: sốt cao liên tục, kéo dài, trạng thái lơ mơ… dễ nhầm với thương hàn. Xét nghiệm máu thấy số lượng bạch cầu tăng tới 20.000/mm3 máu hoặc hơn. – Hội chứng dị ứng quá mẫn nặng: phù nề mí mắt, mặt, các chi, hoặc toàn thân. Có thể phát ban, nổi mề đay. Bạch cầu ái toan tăng cao 40 – 80%, tăng kéo dài hàng tháng.
Triệu chứng đau cơ: khi sốt giảm dần, bệnh nhân có cảm giác đau cơ, hạn chế vận động các cơ, xương, khớp, thở khó, nhai khó…
Nếu nặng có thể thấy viêm cơ tim, viêm phổi, viêm màng não, não, viêm xuất huyết võng mạc… Do ấu trùng từ máu xâm nhập vào các cơ quan gây nên các triệu chứng đa dạng. Ấu trùng không thể kí sinh ở các cơ quan đó, nên chúng sẽ bị chết, chỉ có thể kí sinh ở các tổ chức cơ vân mà thôi.
Nếu thoát khỏi thời kì nguy kịch, bệnh nhân có thể hồi phục dần sau khi nhiễm bệnh 1 – 3 tháng. Bệnh nhân có thể chết do nhiễm trùng nhiễm độc nặng, do dị ứng quá mẫn, hoặc do liệt các cơ hô hấp.
Chẩn đoán.
Thời kì giun trưởng thành kí sinh ở ruột: chẩn đoán rất khó, rất hiếm khi tìm thấy giun trưởng thành trong phân hoặc dịch tá tràng.
Thời kì ấu trùng di chuyển trong máu: chẩn đoán cũng rất khó, rất hiếm khi tìm thấy ấu trùng giun soắn trong máu, trong dịch não tủy…
Thời kì ấu trùng hình thành nang trong tổ chức cơ:
Có thể chẩn đoán quyết định: dựa vào kết quả sinh thiết cơ, thường hay sinh thiết cơ dép, cẳng chân.
Kết hợp với chẩn đoán dịch tễ học: xác định vùng lưu hành bệnh giun soắn, xác định bệnh có liên quan đến bữa ăn, có thể xét nghiệm các thức ăn thừa sau bữa ăn.
Các phản ứng miễn dịch học cũng có thể cho kết quả chẩn đoán tương đối chính xác.
Điều trị.
Điều trị triệu chứng:
Điều trị triệu chứng được ưu tiên hàng đầu, vì bệnh nhân thường chết do nhiễm trùng, nhiễm độc, dị ứng quá mẫm, đau, liệt cơ hô hấp…
Vì vậy mục đích của điều trị là: chống dị ứng bằng corticoid liệu pháp, giảm đau, an thần.
Điều trị đặc hiệu:
Thiabendazole: 25mg/kg x 2lần/ngày x 5 – 7 ngày.
Đây là thuốc có tác dụng tốt trên động vật thực nghiệm.
Nhưng khi dùng cho người bệnh cần rất thận trọng, vì thuốc có tác dụng diệt ấu trùng mạnh, gây dị ứng mạnh hơn.
Phải dùng thuốc sớm, khi kí sinh trùng mới xâm nhập vào cơ thể vật chủ.
Dịch tễ học và phòng chống.
Dịch tễ:
Tình hình nhiễm giun soắn:
Tình hình nhiễm giun soắn có thể gặp mọi nơi trên thế giới với những mức độ khác nhau.
Ổ dịch của những động vật có giun soắn có thể chia thành ổ dịch thiên nhiên chủ yếu là những động vật hoang dại có giun soắn và ổ dịch gần người chủ yếu là những vật chăn nuôi.
Bệnh giun soắn ở người liên quan chủ yếu tới ổ dịch giun soắn ở các động vật chăn nuôi, hiếm khi liên quan tới ổ dịch giun soắn ở các động vật hoang dại.
Ở châu Âu trước kia, Đức là nước nhiễm nặng nhất. Thống kê trước đây thấy 0,05% lợn bị nhiễm giun soắn, tới năm 1889 do những phấn đấu phòng bệnh, tỉ lệ nhiễm ở lợn giảm xuống 0,014%.
Ở các nước Liên Xô cũ, Hà Lan, Thụy Điển, Đan Mạch, Tây Ban Nha cũng đều có bệnh trên gia súc. Ở Bungari tỉ lệ lợn bị nhiễm giun soắn tới 3,24% và ở Rumani tỉ lệ lợn bị nhiễm giun soắn là 0,1%.
Ở Mĩ 0,093% lợn bị nhiễm giun soắn, có nơi như ở Boston tỉ lệ nhiễm là 5%, Chicago tỉ lệ nhiễm 8 – 27%. Ở châu Mĩ, bệnh thường xảy ra đối với người ở Nam và Trung Mĩ.
Ở châu Phi, bệnh giun soắn ở lợn có ở Angieri, Ai Cập và Đông Phi.
Ở châu Á bệnh giun soắn có ở Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước khác như Philipin, Lào, Việt Nam.
Ở châu Đại Dương, bệnh giun soắn có ở Úc, quần đảo Ha-Oai.
Ở Việt Nam, trước năm 1967, chưa phát hiện được ổ giun soắn, nhưng năm 1968 đã phát hiện được ổ bênh giun soắn ở một xã miền núi Tây Bắc, ở Mù Căng Chải- Nghĩa Lộ (1970)…
Việt Nam có phong tục các món ăn chế biến từ thịt lợn sống như: nem chua, chạo…, nhiều vùng có phong tục nuôi lợn thả rông. Cần chú ý đề phòng bệnh này.
Bệnh được phát hiện ở nhiều loài động vật như lợn, chó, mèo, gấu, lợn rừng, chuột… Tỉ lệ nhiễm của người khó xác định vì tình hình nhiễm ở người phụ thuộc vào sinh hoạt. Có những vùng tỉ lệ nhiễm ở súc vật cao nhưng người không ăn thịt sống thì bệnh hiếm xảy ra.
Tính chất phát bệnh và phát dịch phụ thuộc rất nhiều vào tập quán ăn uống.
Nếu những súc vật mổ thịt được kiểm tra sát sinh thì tỉ lệ bệnh sẽ không đáng kể.
Nếu súc vật nhiễm giun soắn được một số người ăn phải thịt sống thì có thể xảy ra hàng loạt người mắc bệnh với những triệu chứng nghiêm trọng. Có một số vùng nông thôn, lợn thịt mổ không qua kiểm tra thì có nguy cơ mắc bệnh nếu ăn sống, tái.
Nguồn bệnh:
Là lợn, chuột, các thú rừng hoang dã… bị bệnh.
Mầm bệnh:
Ấu trùng giun soắn có trong cơ vân của các động vật nói trên.
Đường lây:
Theo đường tiêu hoá do ăn phải nang ấu trùng còn sống.
Người cảm thụ:
Bất kì đối tượng nào cũng có thể bị mắc, không phân biệt tuổi tác, giới tính, người ở vùng có bệnh lưu hành hay khách vãng lai.
Phòng bệnh:
Kiểm soát thịt thú nuôi cũng như thú rừng khi mổ thịt bởi cơ quan thú y. Không ăn các món ăn sống dưới mọi hình thức như: nem, chạo, lạp sườn sống, thịt hun khói…