Khái niệm về giun sán.
Giun sán là những động vật đa bào, cấu tạo cơ thể có những cơ quan riêng biệt. Giun sán kí sinh bao gồm các loại giun sán kí sinh trên động vật và thực vật. Có nhiều loại giun sán sống tự do. Tuy nhiên, đối tượng liên quan chủ yếu tới y học bao gồm các giun sán kí sinh ở người, các động vật khác liên quan tới người, nghĩa là có thể truyền bệnh sang người.
Giun sán sống kí sinh ít hơn, không giống hẳn với nguồn gốc tổ tiên của chúng, cấu tạo cơ thể đã có nhiều thay đổi thích nghi với đời sống kí sinh. Giun sán thường kí sinh theo phương thức bắt buộc, kí sinh vĩnh viễn trong cơ thể vật chủ. Một số ít kí sinh theo phương thức tình cờ lạc chủ, chúng sống tạm thời ở các mô của vật chủ, không phát triển tới giai đoạn trưởng thành.
Đa số giun sán kí sinh ở ống tiêu hóa, bất thường có thể di chuyển lạc chỗ đến những nơi khác trong cơ thể vật chủ. Một số giun sán kí sinh ở gan, phổi, cơ, hệ bạch huyết, hệ tuần hoàn…
Phương thức sinh sản khác nhau rõ rệt giữa giun tròn, sán lá, sán dây. Hầu hết giun tròn sinh sản đơn giới (có giun đực, giun cái riêng). Sán sinh sản lưỡng giới, riêng sán lá có hình thức sinh sản phôi tử (ấu trùng có khả năng sinh sản) và hình thức sinh sản đa phôi (từ một mầm trứng sinh sản thành nhiều ấu trùng).
Đường xâm nhập của giun sán vào cơ thể vật chủ cũng rất khác nhau. Chủ yếu theo đường tiêu hóa (giun đũa, giun tóc, giun kim, sán lá phổi, sán dây lợn, sán dây bò…). Một số giun sán xâm nhập vào cơ thể vật chủ qua đường da (giun móc, giun lươn, sán máng…). Một số xâm nhập vào cơ thể vật chủ qua vết đốt của côn trùng hút máu (giun chỉ…).
Đường thải mầm bệnh giun sán ra khỏi cơ thể vật chủ khác nhau, chủ yếu theo đường thải bã của ống tiêu hóa. Có loại như sán máng S.heamatobium thải trứng qua đường nước tiểu. Có loại thải trứng qua đờm như sán lá phổi Paragonimus sp.
Bệnh giun sán rất phổ biến ở các nước nhiệt đới có khí hậu nóng ẩm rất thuận lợi cho sự sinh trưởng, phát triển của giun sán và các vật chủ trung gian của chúng.
Ở các nước kinh tế chậm phát triển, trình độ văn hoá vệ sinh thấp kém, phong tục lạc hậu tỉ lệ nhiễm giun sán rất cao, cường độ nhiễm giun sán nặng. Tỉ lệ nhiễm giun sán phối hợp (hai, ba, bốn loại giun sán) trên cùng một cơ thể khá cao. Môi trường ngoại cảnh luôn bị ô nhiễm nặng nề bởi mầm bệnh giun sán. Theo thống kê của viện Sốt rét – KST – CT Trung ương, ở miền Bắc Việt Nam, mọi mẫu đất đều tìm thấy trứng giun đũa. Điều này gây khó khăn lớn cho công tác phòng chống giun sán ở Việt Nam.
Tác hại của giun sán với cơ thể vật chủ.
Các giun sán kí sinh đều gây hại cho vật chủ. Có loại rất nguy hiểm dễ gây chết người như: giun đũa, giun soắn. Có loại gây biến chứng nặng nề như thiếu máu, giảm hoặc mất khả năng lao động, dẫn đến tàn phế như giun móc, giun chỉ… Nhưng có loại giun sán thường gây tác hại thầm lặng và bị che lấp bởi nhiều bệnh cấp tính khác nên người bệnh không có nhu cầu thúc bách phải chữa trị và phòng bệnh.
Nói chung tác hại của bệnh giun sán đối với sức khoẻ và đời sống nhân dân là rất lớn, nhưng thầm lặng, những tác hại do giun sán gây ra bao gồm:
Chiếm đoạt dinh dưỡng của cơ thể vật chủ:
Giun sán hấp thụ một phần thức ăn của cơ thể vật chủ, nếu số lượng giun nhiều thì lượng thức ăn bị mất càng lớn.
Trong một ngày đêm, sán dây bò có thể dài ra 7 – 10 cm, do đó nhu cầu dinh dưỡng của sán rất cao. Một số giun sán hút máu cơ thể người như : giun móc, giun tóc… Giun sán còn chiếm những chất cần thiết của cơ thể người như: protein huyết thanh, axit folic, sắt huyết thanh (giun móc/mỏ), vitamin B12 (sán dây cá).
Gây độc cho cơ thể vật chủ:
Giun sán tiết ra chất độc, hoặc thải những sản phẩm chuyển hoá gây độc cho cơ thể vật chủ với biểu hiện: kém ăn, buồn nôn, mất ngủ. Giun đũa có chất độc ở xoang thân (Ascaron) có thể làm chết thỏ thí nghiệm. Có trường hợp điều trị giun đũa, giun bị chết chất độc của giun giải phóng ra làm người bệnh bị nhiễm độc phải cấp cứu.
Tác hại cơ học:
Giun móc, giun tóc bám vào niêm mạc ruột gây viêm loét ruột. Giun đũa gây viêm tắc ruột, tắc mật, tắc ống tụy.
Nang ấu trùng sán dây lợn ở não gây động kinh, đột tử; ở mắt gây mù mắt.
Giun chỉ gây phù voi do tắc bạch huyết.
Sán lá phổi làm vỡ thành mạch phổi gây ho ra máu…
Gây dị ứng cho vật chủ:
Ấu trùng sán di cư trong cơ thể vật chủ thường gây hiện tượng dị ứng (giun đũa, giun tóc), đặc biệt có loại gây dị ứng nặng, sốt cao, phù nề, bạch cầu ái toan tăng cao (giun soắn).
Mở đường cho vi khuẩn xâm nhập:
Giun đũa, giun tóc, sán dây làm cho độ toan dịch dạ dày giảm, vi khuẩn dễ phát triển khi xâm nhập qua đường tiêu hoá.
Ấu trùng giun móc/mỏ, giun lươn… khi chui qua da gây viêm da.
Nhiều tác hại do giun sán gây ra không thể kể hết, có những tác hại âm thầm lặng lẽ, không có biểu hiện bệnh lí, nhưng về mặt sinh hoá có những biến đổi không bình thường.
Chẩn đoán bệnh giun sán.
Chẩn đoán bệnh giun sán thường phải dựa vào nhiều yếu tố:
Chẩn đoán bệnh giun sán dựa vào triệu chứng lâm sàng chỉ có tính chất tham khảo không chính xác vì các triệu chứng của bệnh không điển hình.
Chẩn đoán bệnh giun sán chủ yếu dựa vào xét nghiệm kí sinh trùng học. Tùy theo vị trí kí sinh và đường thải mầm bệnh ra ngoại cảnh mà xét nghiệm các bệnh phẩm: phân, đờm, máu, nước tiểu… Muốn chính xác, phải dựa vào đặc điểm sinh lí, sinh thái của từng loại giun sán, để tìm trứng, ấu trùng, hoặc giun trưởng thành. Ví dụ: đối với giun đũa thì phải tìm trứng giun đũa ở trong phân, giun kim phải tìm trứng ở nếp nhăn hậu môn, giun chỉ phải xét nghiệm máu vào ban đêm để tìm ấu trùng giun chỉ.
Các phương pháp chẩn đoán miễn dịch học thường cho kết quả không chính xác vì thường có đáp ứng miễn dịch chéo giữa các loại giun sán.
Hiện nay kĩ thuật chẩn đoán bằng sinh học phân tử đã và đang có nhiều hứa hẹn trong việc phát hiện và định loại các loài giun sán.
Điều trị bệnh giun sán.
Nguyên tắc điều trị bệnh giun sán:
Chọn thuốc có hiệu quả với nhiều loại giun sán, vì ở nước ta có tỉ lệ nhiễm giun sán phối hợp cao, một người thường bị nhiễm 2 – 3 loại giun sán.
Tập trung thuốc với nồng độ cao để có tác dụng mạnh đến giun và sán. Muốn vậy thường cho bệnh nhân uống vào lúc đói, nhưng không quá đói vì dễ ngộ độc thuốc. Nên dùng thuốc nhuận tràng hoặc thuốc tẩy để tẩy sạch chất nhầy phủ trên cơ thể giun sán giúp cho thuốc ngấm được nhiều, nâng cao hiệu quả điều trị. Nên chọn thuốc có độc tính thấp nhưng có hiệu quả cao.
Sau khi uống thuốc điều trị giun sán, nên dùng thuốc tẩy để tống nhanh giun sán ra khỏi cơ thể, tránh được nhiễm độc (do giun sán bị chết, nát) và phòng ngừa được khả năng giun sán có thể hồi phục trở lại. Nên chọn những thuốc bào chế đã có thêm cả thuốc nhuận tràng.
Phải xử lí giun sán sau khi tẩy, để tránh ô nhiễm môi trường vì giun sán thường chứa một lượng trứng rất lớn.
Sau khi tẩy giun sán cần áp dụng các biện pháp vệ sinh, chống tái nhiễm. Ở nước ta môi trường ngoại cảnh thường bị ô nhiễm nặng nề bởi các mầm bệnh giun sán đó sẽ là điều kiện tái nhiễm rất thuận lợi.
Cần điều trị định kì giun sán (6 – 12 tháng điều trị một lần) để phòng chống tái nhiễm và các biến chứng có thể xảy ra. Điều trị giun sán định kì được coi như một phương pháp bổ sung cho chương trình dinh dưỡng ở những vùng có lưu hành bệnh giun sán. Người ta đã nghiên cứu ở Tanzania, thấy tỉ lệ tăng trọng lượng ở nhóm trẻ được điều trị giun sán lớn hơn 9% so với nhóm trẻ đối chứng không được điều trị giun sán (Báo cáo kĩ thuật 666, WHO, 1982).
Khái niệm điều trị hàng loạt, điều trị chọn lọc các bệnh giun sán:
Điều trị hàng loạt:
Điều trị hàng loạt có chu kì cho tập thể là điều trị cho toàn bộ dân cư sống trong khu vực đó. Đây là một trong những biện pháp rất có hiệu quả trong công tác phòng chống các bệnh giun sán truyền qua đất. Điều trị hàng loạt mặc dù được công nhận là một trong những biện pháp có hiệu quả nhất phòng chống các bệnh giun sán truyền qua đất. Song đầu tư tài chính cho điều trị hàng loạt rất tốn kém. – Mục đích điều trị hàng loạt không phải để tẩy hết giun sán, chỉ để giảm cường độ nhiễm bệnh và giảm tần số lan truyền bệnh. Khi áp dụng phương pháp điều trị hàng loạt cần đặc biệt chú ý tốc độ tái nhiễm. Cần nghiên cứu cách thức sử dụng thuốc, tần số, khoảng cách, để lựa chọn biện pháp tốt nhất làm giảm tỉ lệ nhiễm, giảm tốc độ tái nhiễm.
Thuốc dùng trong điều trị hàng loạt phải ít độc, an toàn, có thể sử dụng rộng rãi trong nhân dân, không gây biến chứng. Hiện nay các thuốc điều trị an toàn, hiệu quả cao với nhiều loại giun sán là albendazole, mebendazole. Nói chung nên dùng các thuốc để điều trị 3 lần/năm, khoảng cách 4 tháng trong 3 năm đạt tỉ lệ tái nhiễm thấp nhất.
Điều trị chọn lọc:
Là chỉ điều trị cho một nhóm người trong một khu vực nhất định.
Mục đích: nhằm đề ra biện pháp điều trị chọn lọc ở các đối tượng bị nhiễm giun nặng. Ví dụ: trẻ em là đối tượng có nguy cơ nhiễm giun cao nhất, cường độ nhiễm nặng nhất, ý thức vệ sinh kém nhất, nên trẻ em là nguyên nhân gây ô nhiễm mầm bệnh giun sán ra ngoại cảnh mạnh nhất và cũng là đối tượng tái nhiễm nhanh nhất. Qua nghiên cứu thấy rằng chỉ cần tập trung điều trị cho trẻ dưới 16 tuổi (chiếm khoảng 50% dân số) cũng làm giảm được tỉ lệ nhiễm, cường độ nhiễm giun sán trong cả cộng đồng. Cũng có quan niệm chọn lọc những người có cường độ nhiễm nặng nhất, tập trung điều trị cho họ cũng mang lại hiệu quả tương tự.
Điều trị chọn lọc đạt hiệu quả tương đương với điều trị hàng loạt, mà đầu tư tài chính lại tiết kiệm được thời gian, công sức, nhân lực và đặc biệt lại tiết kiệm được 50% kinh phí. Người ta thường áp dụng điều trị chọn lọc với một số bệnh giun sán truyền qua đất, dễ mắc nhất, tỉ lệ nhiễm cao, cường độ nhiễm nặng. Thậm chí có thể áp dụng với một số bệnh kí sinh trùng khác.
Một số thuốc điều trị chủ yếu:
Thuốc điều trị giun:
Piperazin (Dietylen diamin), dược dụng là loại hexahydrat.
Biệt dược: piperal, piperazin citrat, piperol, antepar…
Cơ chế tác dụng: chẹn thần kinh cơ do tác dụng kháng tiết cholin ở chỗ nối cơ thần kinh và giảm bớt sự sản xuất succinat (cung cấp năng lượng cần thiết cho sự co cơ giun). Do đó giun bị tê liệt, không thể kháng lại nhu động ruột và bị tống ra ngoài.
Thuốc có tác dụng với: giun đũa, giun kim.
Tác dụng phụ: hiếm thấy ở liều điều trị, nếu có: nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn.
Chống chỉ định: bệnh gan, thận, động kinh, thai 3 tháng đầu, không dùng khi nhiễm quá nhiều giun vì có thể gây tắc ruột.
Levamisole:
Biệt dược: levaris, decaris, solaskil…
Cơ chế tác dụng: thuốc ức chế hoạt động của men succinat dehydrogenaza có ở trong cơ thể của giun. Ngăn cản sự chuyển hoá fumarat thành succinat dẫn đến tê liệt cơ giun rồi thải trừ qua phân.
Thuốc có tác dụng với: giun đũa, giun tóc, giun kim.
Tác dụng phụ: ít gặp, nếu có: nhức đầu, đau bụng, đi ngoài, dị ứng. Phụ nữ có thai không nên dùng.
Chống chỉ định: suy gan thận nặng, phụ nữ có thai.
Mebendazole:
Biệt dược: vermox, fugacar, soltric…
Cơ chế tác dụng: thuốc ức chế sự hấp thu glucose của giun làm mất mất khả năng dự trữ glycogen, giảm hình thành ATP (là chất quan trọng trong việc duy trì sự sống và sinh sản của giun).
Thuốc có tác dụng với nhiều loài giun: giun đũa, giun tóc, giun móc, giun kim và ấu trùng giun chỉ.
Tác dụng phụ: hiếm gặp, nếu có: đau bụng, buồn nôn, đi ngoài. Không dùng cho phụ nữ có thai.
Albendazole:
Biệt dược: zentel, zenben, alzental.
Cơ chế tác dụng: cơ chế tác dụng cũng giống mebendazol.
Tác dụng với nhiều loại giun: đũa, tóc, móc, kim, lươn, sán dây lợn…
Pyrantel:
Biệt dược: combantrin, antiminth, panatel…
Là dẫn chất của pyrimidine.
Cơ chế tác dụng: ức chế dẫn truyền thần kinh cơ của giun gây nên liệt cứng và giun bị tống ra ngoài.
Thuốc có tác dụng với: giun đũa, giun kim, giun móc. + Thiabendazole (mitezol):
Cơ chế tác dụng: ức chế hệ fumarat-reductase đặc hiệu ở ti thể của tế bào giun, ức chế tiết acetylcholinesterase của giun lươn, cản trở giun di chuyển. – Chỉ định: hiện nay thiabendazol là thuốc tốt điều trị giun lươn. Thiabendazole còn được sử dụng điều trị bệnh ấu trùng của giun động vật khi nhiễm vào người như: viêm màng não – não do Angiostrongylus cantonensis. Bệnh ấu trùng cơ, tổ chức do nhiễm giun đũa chó (Toxocara canis), mèo (Toxocara cati).
Tác dụng phụ: ít gặp, chán ăn, buồn nôn, nôn, đau đầu, hạ glucose máu, nên nghỉ 24 giờ sau khi dùng thuốc.
Chống chỉ định: bệnh gan.
Diethylcarbamazin (DEC, banocid, notezin…):
Cơ chế tác dụng: làm liệt cơ giun ở thể trưởng thành của giun chỉ. Với ấu trùng: DEC tác dụng thông qua cơ chế miễn dịch dịch thể và tế bào của vật chủ.
Thuốc có tác dụng: giun chỉ ở thể trưởng thành và ấu trùng.
Độc tính: liều cao gây rối loạn tiêu hoá, mệt, choáng váng, ngủ lịm… Do phản ứng miễn dịch: toàn thân, tại chỗ nổi hạch, viêm hạch bạch huyết, viêm thừng tinh, viêm mào tinh hoàn.
Thuốc điều trị sán:
Niclosamid (yomesal, niclocide, tamox…):
Cơ chế tác dụng: thuốc không hấp thu qua ống tiêu hoá mà chỉ thấm qua phần tổn thương ở vỏ sán qua thân sán sau đó sán bị enzym hủy protein của vật chủ phân giải.
Thuốc có tác dụng với các loại sán dây bò, sán dâylợn, sán màng (Hymenolepsis nana) sán nhái (Dyphyllobothrum latum), – Không nên dùng cho phụ nữ có thai, có thể gây buồn nôn, nôn, đau bụng.
Không uống rượu trong thời gian dùng thuốc.
Praziquantel (pratez, biltricid, cesol):
Cơ chế tác dụng: ngăn cản hấp thu glucose, tăng thải acid lactic làm kiệt dự trữ glycogen, làm vỏ sán dễ bị tác động của enzym huỷ protein vật chủ làm thay đổi tính thấm màng tế bào sán, thoát cơ chất.
Tác dụng: diệt các thể trưởng thành của sán dây (bò, lợn), sán lá (sán lá gan nhỏ, sán lá phổi, sán lá ruột), sán máng (Schistosoma), sán màng, sán nhái. Không có tác dụng diệt trứng sán.
Phòng chống bệnh giun sán.
Phòng chống các bệnh giun sán truyền qua đất (geohelminth):
Công tác phòng chống các bệnh giun sán truyền qua đất ở các nước đang phát triển rất khó khăn:
Do vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân kém, thiếu sự giáo dục về y tế, khả năng cung cấp nước sạch không đảm bảo, có phong tục tập quán sử dụng phân người trong nông nghiệp, phóng uế bừa bãi, hố xí không đúng quy cách nên làm ô nhiễm nặng nề môi trường bởi mầm bệnh giun sán.
Các yếu tố khác: mưa, gió, gia súc (trâu, bò), gia cầm (lợn, chó, gà…), các động vật chân đốt (ruồi, bọ hung…) cũng có vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát tán mầm bệnh giun sán. Sự lan truyền mầm bệnh giun sán xảy ra cả vào mùa mưa và mùa khô.
Trứng giun sán trên mặt đất bị mưa cuốn trôi, đến những chỗ thấp hơn, tập trung ở những vũng nước trên mặt đất, lắng đọng trong một lớp bùn mịn giữa một lớp che phủ bảo vệ mỏng của chất keo đất sét và một lớp các hạt thô hơn của mùn cát.
Khả năng phát tán của trứng giun sán ra môi trường lớn: trứng giun sán cùng với bụi nhờ gió thổi vào mọi xó xỉnh, đồ vật trong nhà, mọi chỗ đều bị nhiễm trứng giun sán.
Trứng giun sán có thể tồn tại lâu trong đất, môi trường. Ví dụ: tại Xamacan, qua 15 năm quan sát có chu kì trứng giun đũa chôn ở gần mặt đất tại một thí điểm ở công viên, thấy sau 9 năm, một số trứng di chuyển tới độ sâu 20 cm và còn khả năng sống tới 2%. Ở độ sâu 10 cm còn khả năng sống 5,9 – 7,6%. Sau 15 năm một số trứng vẫn còn khả năng lây bệnh cho động vật thực nghiệm. Ở điều kiện thích hợp về nhiệt độ, độ ẩm, trứng giun đũa có thể sống ở ngoại cảnh 5 – 6 năm vẫn còn khả năng lây nhiễm. Tại Anh, trứng giun tóc phát hiện ở độ sâu 60 cm. Nhưng nói chung các trứng ở độ sâu hơn 20 cm đều ít có khả năng sống.
Mặt khác trứng giun sán có thể tồn tại lâu ở ngoại cảnh do tác động của con người làm tăng mức ô nhiễm mầm bệnh giun sán ở ngoại cảnh:
Trứng giun sán có nhiều ở thực phẩm tươi sống (rau, quả).
Ở những thực phẩm muối dưa, hành… trứng giun sán vẫn có khả năng sống được và gây bệnh.
Mục tiêu trước mắt phòng chống bệnh giun sán ở Việt Nam là giảm cường độ nhiễm.
Biện pháp có hiệu quả nhất là kết hợp hài hoà các biện pháp tổng hợp:
Vệ sinh cá nhân:
Tăng cường giáo dục ý thức vệ sinh cá nhân cho mọi người, đặc biệt là trẻ em, cần có phối hợp giữa y tế với giáo dục để đưa giáo dục vệ sinh vào giáo dục học đường phổ cập.
Giáo dục vệ sinh bàn tay, vệ sinh ăn uống, vệ sinh phóng uế… để mọi người tự thấy cần thiết phải rửa tay trước khi ăn, nâng cao ý thức vệ sinh, không ăn các thực phẩm tươi sống, chưa rửa kĩ, không đảm bảo vệ sinh.
Không mặc quần thủng đít cho trẻ em, không phóng uế bừa bãi ra vườn, sân, hè phố…
Vệ sinh môi trường:
Rất quan trọng, đặc biệt ở các nước đang phát triển, thuộc khu vực nhiệt đới, do thu nhập thấp, trình độ văn hoá kém, tập trung lâu đời, lạc hậu… Phải có biện pháp tích cực tuyên truyền cộng đồng quản lí, xử lí nguồn phân và bảo vệ nguồn nước sạch.
Cần phải có hố xí đúng quy cách, hợp vệ sinh, diệt được các mầm bệnh kí sinh trùng. Trước đây mô hình hố xí hai ngăn được coi như một sáng kiến của Việt Nam. Tại Hội nghị quốc tế về vệ sinh môi trường ở Băng Cốc (1978) đã công nhận và đặt tên cho hố xí hai ngăn của Việt Nam là Vietnamise composting toilet. Hố xí hai ngăn đúng quy cách là hố xí phải đảm bảo được các yêu cầu: có hai ngăn (một ngăn sử dụng, một ngăn ủ phân), phải kín, khô đủ nhiệt độ, đủ chất độn, đủ thời gian ủ (2,5 – 3 tháng), có tác dụng diệt các mầm bệnh kí sinh trùng (trứng giun sán, kén đơn bào…). Nhưng trong thực tế rất hiếm hố xí đạt được các tiêu chuẩn kể trên. Hiện nay Tổ chức Y tế thế giới đã và đang phổ biến nhiều loại hố xí: Biogaz, hố xí Sulav (hố xí thấm, dội nước)… Giá thành rẻ hơn hố xí tự hoại, có tác dụng diệt các mầm bệnh kí sinh trùng và vi sinh vật. Hố xí Sulav giá thành tương đương hố xí 2 ngăn, nhưng tác dụng diệt mầm bệnh tốt hơn. Tuy nhiên hố xí này khó áp dụng ở vùng đồng bằng ngập nước, ở ven đô, ngoại thị, đất chật. Nguyễn Mạnh Liên và Bộ môn Vệ sinh quân đội – Học viện Quân y đã đưa ra mô hình hố xí Sulavina (hố xí thấm dội nước có hào lọc định hướng). Nguyên tắc như hố xí Sulav, nhưng sử dụng được cả vùng đồng bằng ngập nước, vùng ven đô đất chật. Lê Bách Quang, Trịnh Trọng Phụng (1991), đã nghiên cứu khả năng gây ô nhiễm mầm bệnh kí sinh trùng của hố xí Sulavina ra môi trường đất, nước, cho thấy Sulavina là hố xí hợp quy cách vệ sinh. Cùng với quản lí nguồn phân, cần có những nỗ lực làm sạch các mầm bệnh kí sinh trùng, vi sinh vật ở ngoại cảnh, làm sạch môi trường bằng các biện pháp lí, hoá, sinh học.
Cần có những biện pháp đảm bảo vệ sinh nguồn nước. Giếng nước phải xa các hố xí, xa chuồng chăn nuôi gia súc, không bị rò rỉ, thấm nước. Nguồn nước chưa sạch cần có bể lọc, nước uống cần đun sôi để diệt những bệnh kí sinh trùng truyền qua nước.
Trình độ văn hoá thấp kém, phong tục lạc hậu, thực sự là hàng rào ngăn cản công tác phòng chống bệnh giun sán. Để giáo dục tập quán vệ sinh trong nhân dân cần kết hợp tuyên truyền giáo dục với các biện pháp hành chính như những quy định về xã hội, văn hoá, kinh tế. Nhằm vào đối tượng trẻ em để xây dựng tập quán mới, khoa học, vệ sinh cho ngày nay và cho tương lai.
Phòng chống các loại giun sán truyền qua sinh vật (biohelminth):
Công tác phòng chống các bệnh giun sán truyền qua sinh vật về cơ bản giống như các nguyên tắc phòng chống các bệnh giun sán truyền qua đất, nhưng chú ý:
Các biện pháp phòng và diệt vật chủ trung gian truyền bệnh (ví dụ: các biện pháp diệt muỗi truyền bệnh giun chỉ). Các biện pháp kiểm tra thực phẩm, thịt, cá… để ngăn chặn lan truyền các bệnh sán dây lợn, sán dây bò, sán lá gan bé, sán lá phổi…
Giáo dục kiến thức vệ sinh chung, vệ sinh ăn uống, nhằm thay đổi các phong tục ăn gỏi cá, các thức ăn sống, tái hoặc chưa nấu chín.
Kết hợp với chuyên ngành Thú y, đề xuất các biện pháp bảo vệ đàn gia súc, chống lại các mầm bệnh kí sinh trùng bằng các biện pháp quản lí, bằng vaccin.
Tình hình giun sán ở việt nam.
Phân bố bệnh giun sán:
Ở nước ta bệnh giun trầm trọng hơn bệnh sán, trầm trọng ở mức độ nhiễm cao, diện nhiễm rộng. Từ Bắc vào Nam ở cả 4 vùng: đồng bằng, trung du, miền núi, ven biển đều có tỉ lệ bệnh giun đũa, giun móc/mỏ, giun tóc cao. Đặc biệt là ở vùng có mật độ dân cư lớn như đồng bằng, ở các địa phương còn có phong tục ăn các món ăn có thịt lợn, thịt trâu bò chưa nấu chín. Theo thống kê mới nhất vào năm 2004 cho thấy:
Các bệnh sán lá gan nhỏ đã phát hiện được ở 21 tỉnh thành trong cả nước, thường tập trung ở các vùng dân cư ven biển có tập quán ăn cá gỏi và làm cầu tiêu xuống ao. Hiện nay bệnh sán lá gan nhỏ còn có tỉ lệ cao ở một số vùng thuộc các tỉnh đồng bằng, ven biển (Ninh Bình 70%, Nam Định 80,4%, Thanh Hoá 67,9%, Phú Yên, Bình Định, Bình Thuận…).
Bệnh sán lá gan lớn hiện gặp ở 30 tỉnh trong cả nước, tuy nhiên tỉ lệ gặp nhiều nhất ở các tỉnh Trung Bộ như Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hoà… do tập quán ăn rau sống có nguồn gốc mọc ở dưới nước như rau ngổ, ngó sen…
Bệnh sán lá phổi thường gặp ở những nơi có phong tục ăn cua, tôm nướng như Lai Châu, Yên Bái, Lào Cai, Lạng Sơn, Sơn La…
Bệnh sán dây lợn, sán dây bò thường gặp rải rác ở các vùng miền núi, trung du (hiện nay toàn quốc đã có ở 49 tỉnh thành như Lai Châu, Lào Cai, Hoà Bình, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Nam Định, Hà Tây, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Ngãi, Phú Yên, Đắc Lắc, Đồng Nai, Tp. Hồ Chí Minh, Kiên Giang…).
Bệnh do ấu trùng sán dây lợn đã có mặt ở 30 tỉnh trên toàn quốc như: Bắc Kạn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Phòng, Thanh Hoá…
Tác hại của bệnh giun sán ở việt nam:
Bệnh giun sán đã gây ra những thiệt hại to lớn không những về sức khoẻ, tính mạng của người bệnh mà còn gây thiệt hại lớn lao về vật chất của gia đình và xã hội. Nhìn chung bệnh giun sán có tác hại với đa số người một cách thầm lặng và lâu dài cũng giống như các bệnh kí sinh trùng khác.
Bệnh giun sán gây tác hại tới mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là tác hại ở lứa tuổi trẻ em. Nhiễm giun đũa có thể gây tắc ruột, lồng ruột và thủng ruột do nhiều giun hoặc do thay đổi pH ở ruột. Đôi khi giun đũa có thể di chuyển lạc chỗ lên ống mật, ruột thừa, lệ đạo, thậm trí vào tim gây ra những bệnh cảnh tại đặc biệt như viêm ống mật, viêm ruột thừa, cơ tim…
Ngoài ra giun đũa, giun kim đang gây ra tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em hiện nay. Bệnh giun móc/mỏ gây tình trạng thiếu máu.
Bệnh giun chỉ đã giảm tỉ lệ người mắc, nhưng cá biệt một số vùng trong nước nhân dân vẫn còn mắc bệnh giun chỉ dẫn đến hiện tượng phù voi, đái ra dưỡng chấp (Hưng Yên, Khánh Hoà).
Các bệnh sán tuy là ít người mắc so với bệnh giun, nhưng bệnh sán như sán lá gan, sán lá phổi vẫn còn tồn tồn tại và vẫn có thể dẫn tới tử vong. Bệnh ấu trùng sán dây lợn ở não có thể dẫn tới tử vong.
Các kế hoạch phòng chống bệnh giun sán ở nước ta:
Bệnh giun sán là một bệnh mang tính xã hội, nên vấn đề phòng chống tiến tới khống chế bệnh là phải mang tính xã hội, công việc của toàn cộng đồng.
Gần đây người ta đã điều chế được các loại thuốc diệt giun sán có hiệu quả cao, ít độc, giá thành hạ. Kết quả đó đã tạo cho việc tấn công hạ được tỉ lệ giun sán dễ dàng hơn trước.
Tuy nhiên bản chất của bệnh giun sán có liên quan chặt chẽ tới môi trường sống. Trước tiên ở nước ta là vấn đề quản lí phân, vấn đề hố xí, vấn đề sử dụng phân người làm phân bón. Nếu các vấn đề trên còn tồn tại sẽ gây ô nhiễm môi trường, cung cấp nước sạch và chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Đối tượng cần quan tâm hàng đầu là vùng nông thôn và lứa tuổi trẻ em.
Phân loại.
Ngành phụ giun tròn- nematodes:
Ngành phụ giun tròn có một lớp: Nematoda. Lớp này chia ra hai lớp phụ:
Lớp phụ Phasmidia.
Những thần kinh có cảm giác ở đuôi và chia ra các bộ: – Ascaridia (giun đũa, giun kim).
Rhabditida (giun móc, giun lươn).
Spirudida (giun chỉ).
Lớp phụ Aphasmidia.
Những loại giun không có thần kinh cảm giác ở đuôi, có các bộ:
Enoplida (giun soắn).
Trichocephalata (giun tóc).
Ngành phụ giun dẹt – platodes:
Được chia ra thành các lớp sau:
Lớp sán lá – Trematoda.
Sán lưỡng giới:
Lỗ sinh dục ở trước bụng:
Hai nhánh tiêu hoá chia thành nhiều nhánh nhỏ, tinh hoàn và buồng trứng chia nhiều nhánh nhỏ: Fasciolidae.
Hai nhánh tiêu hoá đơn, không chia nhánh:
Tinh hoàn ở trước buồng trứng: Dicrocoelidae.
Tinh hoàn ở sau buồng trứng: Ospisthorchidae.
Lỗ sinh dục ở sau giác bụng: Troglotrematidae (sán lá phổi).
Sán phân giới: Schistosomatidae (sán máu).
Lớp sán dây – Cestoda. Có hai bộ:
Bộ Cyclophyllidae: đầu có 4 giác, tử cung bịt kín, có một vật chủ phụ, ấu trùng có nang.
Bộ Pseudophyllidae: đầu có 2 rãnh, tử cung có lỗ đẻ, có 2 vật chủ phụ, ấu trùng hình sâu.
Ngành phụ giun đốt:
Ngành giun đốt có nhiều lớp trong đó có lớp đỉa, vắt (Hirudinea) có liên quan đến y học.