Có nhiều bộ, họ, trong đó có bộ Linguatula, bộ Arcarina (bộ ve) có vai trò đối với y học.
Bộ linguatula
Là những động vật chân đốt nhỏ chân bị thoái hoá, hình thể giống như giun sán, nhưng có thớ ngang, hình dẹt hoặc tròn, thở qua da.
Linguatula có hai loài chính:
Linguatula serrata:
Hình dẹt, thân có thớ chia ngang. Con cái dài 8 – 10 mm, con đực nhỏ hơn, chỉ dài 5 – 6 mm, kí sinh ở xương hốc mũi các loài chó, chồn, cừu…
Ở người, kí sinh dưới dạng ấu trùng tạo thành những nang ở cơ hoành hoặc gan. Người bị nhiễm do ăn phải trứng có lẫn trong thực phẩm.
Porocephalus armillatus:
Hình ống dài, có các khúc giống như đốt trúc: có cái có 18 – 22 khúc, dài 9 – 10 cm; con đực có 10 – 17 khúc, dài 4 – 5 cm. Con trưởng thành kí sinh ở phổi các loài rắn lớn; ở người, kí sinh dưới dạng ấu trùng tạo thành nang ở gan. Người nhiễm do ăn phải trứng. Cả hai bệnh này chưa gặp ở Việt Nam.
Bộ acarina – bộ ve
Ve – Acarina có đầu, ngực, bụng dính liền một khối, bộ phận miệng còn gọi là đầu giả (capitulum).
Acarina trưởng thành có 8 chân, ấu trùng có 6 chân, không có râu, không có cánh.
Phân loại Acarina theo cách thở và lỗ thở:
Lỗ thở ở giữa cơ thể: Ixodidae và Gamasidae.
Lỗ thở ở trước thân: Trombidoiae.
Không có lỗ thở, thở qua da: Sarcoptoidae.
Họ ve ixodidae
Thường gọi là ve có lỗ thở nằm ở giữa cơ thể. Đầu giả mang hai càng không di động được, có 2 họ phụ: ve mềm (Argasinae) không có mai, đầu giả nằm ở dưới bụng (ít gặp ở Việt Nam) và ve cứng (Ixodinae) có mai, đầu giả nằm ở phía trước.
Ve có thành phần loài rất phong phú, kí sinh trên nhiều loài động vật. Trên thế giới phát hiện được 750 loài Ixodinae và trên 100 loài Argasinae. Miền Bắc Việt
Nam đã phát hiện được 49 loài và phân loài ve cứng, 1 loài ve mềm kí sinh trên các động vật máu nóng (trâu, bò, chó, chuột, gà, chim…) và bò sát (rắn, kì đà…).
Ve mềm (Argasinae).
Ve mềm (Argasinae) có các chi Argas và Ornithodoros.
Năm 1942 Toumanoff gặp ve mềm kí sinh trên dơi.
Không có mai lưng ở tất cả các giai đoạn phát triển, mặt bụng chỉ có những đĩa bằng kitin, đầu giả nằm ở dưới bụng.
Hình : Hình thể và vòng đời của ve mềm.
Ve mềm hoàn thành vòng đời từ 3 – 12 tháng. Ve đực và ve cái đều hút máu, thường hút máu về đêm. Đực cái giao phối ngay trên vật chủ. Mỗi đời đẻ 100 – 200 trứng, cả đời đẻ khoảng 1200 trứng. Ve trú ẩn ở khe kẽ nền nhà, vách tường, khe cột…
Ve nhịn đói lâu được tới hàng năm. Tuổi thọ của Argasidae cao, có khi tới 25 năm.
Ve mềm Ornithodoros moubata truyền được cho người một số loài soắn khuẩn thuộc chi Spirochaeta và Borrelia. Ve hút máu của động vật gặm nhấm và thú nhỏ bị nhiễm soắn khuẩn, soắn khuẩn phân tán khắp cơ thể ve và cả tuyến nước bọt, sau đó truyền cho động vật xương sống khác.
Ve mềm Ornithodoros moubata gây bệnh sốt hồi quy.
Ve cứng (Ixodinae).
Hình thể ve cứng:
Ve trưởng thành hình bầu dục, dẹt theo chiều lưng bụng, dài khoảng 3 – 23 mm tùy thuộc từng loài, màu từ nâu nhạt đến đậm. Thân là một khối không phân rõ đầu, ngực, bụng.
Có bộ phận hút máu gọi là đầu giả (capitulum) nằm ở phía trước, gồm một đôi pan, một đôi kìm và một vòi xếp thành hàng, mọc quay xuống phía thân. Mỗi pan có 4 đốt, đốt thứ 4 nằm trong đốt thứ 3, có cơ quan khứu giác để tìm mồi. Mặt lưng có mai (mảng kitin), con đực có mai to trùm toàn bộ lưng; con cái mai nhỏ chỉ chiếm một phần phía trước. Đốt cuối của đôi chân trước có cơ quan cảm giác (cơ quan Haller) để đánh hơi tìm mồi . Ấu trùng ve chỉ có ba đôi chân.
Hình : Hình thể ve cứng.
Đặc điểm sinh học:
Vòng đời phát triển trải qua 4 giai đoạn: trứng – ấu trùng – thanh trùng – trưởng thành. Ve đực thường chết sau khi giao phối.
Ve cái tìm mồi hút máu và đẻ trứng. Cả đời ve chỉ đẻ 1 lần, đẻ hết trứng và teo xác lại rồi chết. Thời gian đẻ trứng kéo dài trong 14 – 20 ngày với số lượng từ 2000 – 8000 trứng. Sau 2 – 7 tuần, trứng nở ra ấu trùng. Mỗi giai đoạn phát triển ấu trùng, thanh trùng và trưởng thành đều cần hút máu, có no mới lớn lên và lột xác chuyển giai đoạn. Nhìn chung các loài ve hút máu nhiều loài vật chủ (đa vật chủ), một số loài chỉ có ít vật chủ thích hợp là người và động vật. Các hình thức kí sinh của ve có thể là:
Kí sinh trên một loài vật chủ ở tất cả các giai đoạn: Boophylus caudatus…
Kí sinh trên 2 vật chủ, giai đoạn ấu trùng và thanh trùng trên 1 vật chủ, giai đoạn trưởng thành trên 1 vật chủ khác: Rhipicephalus bursa.
Mỗi giai đoạn phát triển vòng đời kí sinh trên 1 vật chủ như: Dermacentor, Haemaphysalis.
Thời gian hoàn thành vòng đời phát triển của ve tùy thuộc vào thức ăn và nhiệt độ môi trường, kéo dài 2 – 3 tháng hoặc hơn.
Khu vực phân bố của ve tùy thuộc vào vật chủ. Có loài gặp nhiều ở rừng rậm, đồng cỏ; có loài ở xung quanh chuồng gia súc… Những động vật là vật chủ của ve: chuột, sóc, trâu, bò, ngựa… và người. Trên vật chủ ve thường tìm nơi da ẩm như: cổ, nách, bẹn, sau tai… để kí sinh hút máu.
Hình : Vòng đời ve cứng.
Ve rình mồi bằng cách bám trên ngọn cỏ, lá cây… ở các đường đi của vật chủ. Ve nằm im, đưa 2 chân trước lên đánh hơi tìm mồi, hướng về phía vật chủ đang đi lại. Khi vật chủ đi qua, ve bám ngay vào lông tóc, quần áo… sau đó tìm nơi kí sinh. Sau khi bám vào vật chủ 50 – 60 phút ve mới hút máu. Ở nhiệt độ 19 – 200C, độ ẩm 80% ve hoạt động mạnh. Khi trời nắng ấm, khô ráo ve hoạt động mạnh. Khi trời âm u, trời mưa ve hoạt động ít hơn, có khi ngừng hoạt động.
Mùa phát triển của ve ở Việt Nam khác nhau tùy từng loài: Haemaphysalis, Amblioma, Dermacentor phát triển vào hè thu (tháng 4 – tháng 8); Boophylus phát triển quanh năm nhưng nhiều vào đông xuân.
Ve có sức chịu đói cao: ấu trùng có thể nhịn đói khoảng 1 tháng, thanh trùng và trưởng thành nhịn đói được hàng năm. Ve có thể sống khoảng 5 năm.
Vai trò y học:
Vai trò truyền bệnh:
Ve có thể truyền được nhiều loại mầm bệnh: vi khuẩn, vi rút, Rickettsia…
Mầm bệnh là Rickettsia:
Sốt Q: mầm bệnh là R.burnetti (Coxiella burnetti). Bệnh phát hiện lần đầu tiên ở vùng Queensland (Australia). Hiện bệnh phân bố rộng rãi trên toàn thế giới. Bệnh do ve Rhipicephalus, Dermacentor truyền; bệnh cũng có thể lây qua đường hô hấp và tiêu hoá.
Sốt phát ban vùng núi đá: mầm bệnh là R.rickettsi, do ve Dermacentor truyền, hay gặp ở vùng Tây châu Mĩ (Braxin, Canada, Colombia, Panama và Mĩ).
Sốt phát ban Siberie: mầm bệnh là R.sibirica do ve Dermacentor, Haemaphysalis, Rhipicephalus truyền. Bệnh phân bố ở Nhật Bản, Liên Xô (cũ) và vùng Thái Bình Dương. Bệnh do loài ve rừng châu Á Dermacentor silvarum truyền.
Bệnh sốt phát ban do R.conorii: ở vùng Trung Cận Đông, châu Phi và Nam Á do ve chó nâu Rhipicephalus sangiuneus truyền.
Bệnh sốt phát ban do R.australis xảy ra ở vùng Queensland (Australia): do loài ve yếm Ixodes holocychis truyền.
Điều trị: có thể dùng tetracyclin hoặc cloramphenicol.
Phòng bệnh: tránh không cho ve đốt, nhanh chóng thận trọng lấy ve ra khỏi chỗ đốt. Rickettsia có thể nhiễm cho người vài giờ sau khi ve bám vào vật chủ.
Mầm bệnh là virút:
Một số bệnh viêm não do ve truyền là do virut gây viêm cấp ở não, màng não, tủy sống. Triệu chứng thay đổi tùy theo bệnh. Nhiều người bị nhiễm nhưng không có biểu hiện gì. Trường hợp nặng có đau đầu dữ dội, sốt cao, buồn nôn, hôn mê, có thể tử vong.
Viêm não ve hay viêm não vùng rừng Taiga (còn gọi là viêm não vùng Viễn Đông): do ve Taiga Ixodes persulcatus truyền.
Viêm não châu Âu (viêm não vùng Trung Âu từ Ural cho đến Pháp): do ve đậu Ixodes ricinus truyền.
Bệnh sốt Colorado: do ve rừng Mĩ Dermacentor andessoni, bệnh được nghiên cứu nhiều ở châu Mĩ.
Mầm bệnh là vi khuẩn:
Bệnh Tularemia: do ve Dermacentor truyền, gặp nhiều ở châu Mĩ, châu Âu.
Bệnh còn gọi là bệnh sốt thỏ, sốt ruồi hươu hay bệnh Ohara do Francisella tularensis gây ra. Mầm bệnh do ve Dermacentor, ve thỏ Mĩ Haemaphysalis leporis-palustris; cũng có thể do va chạm với động vật mắc bệnh như thỏ… Thợ săn và thợ rừng có nguy cơ nhiễm bệnh cao.
Bệnh điều trị bằng kháng sinh streptomycin.
Dự phòng: tránh ve đốt; sử dụng găng tay không thấm nước để giết ve và tiếp xúc với các động vật săn được. Nấu chín thịt động vật hoang dại và nước ở vùng có bệnh.
Bệnh Lime: mầm bệnh là xoắn khuẩn Borrelia burrefery, phát hiện từ năm
1975 tại làng Lime (Mĩ). Bệnh xảy ra chủ yếu ở vùng ôn đới phía Bắc Trái Đất gồm: Trung Quốc, châu Âu, Mĩ và Liên Xô (cũ).
Bệnh đã được phát hiện ở Việt Nam trên một bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện 103 (Nguyễn Phú Kháng và CS, 1990).
Bệnh phát triển qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn cấp: giống cảm cúm, sau khi nhiễm bệnh 10 – 15 ngày. Tại chỗ ve đốt có ban đỏ.
Giai đoạn vào khớp: viêm khớp, viêm cơ tim, viêm màng trong tim, cuối sùng suy tim nhất là suy tim phải và kèm theo loạn thần. Giai đoạn này tử vong 15%.
Giai đoạn mạn tính: để lại di chứng không hồi phục.
Bệnh chủ yếu do ve Ixodes truyền, phổ biến nhất vào mùa hè, khi có nhiều thanh trùng ve.
Các loài gặm nhấm nhỏ, đặc biệt là chuột, đóng vai trò nguồn bệnh trong khi đó các thú lớn chủ yếu đóng vai trò vật chủ nuôi giữ quần thể ve. Ấu trùng ve nhiễm bệnh trong khi đốt chuột, thanh trùng và trưởng thành có thể truyền bệnh trong những lần đốt tiếp theo.
Tại những vùng ôn đới phía bắc bệnh đã trở nên phổ biến hơn khi những đàn hươu, nai tăng lên và đã thích nghi với cuộc sống gần người. Có thể giảm sự tiến triển bệnh hoặc dự phòng bằng tetracyclin hoặc penicillin trong 2 – 4 tuần.
Vai trò gây bệnh của ve:
Gây ngứa tại chỗ: vết ve đốt rất đau, ngứa do phản ứng của vật chủ; hoặc do đầu giả của ve bị đứt lại trong da làm nổi sẩn cục, sưng đau, ngứa, phù nề.
Thiếu máu: nếu bị ve đốt nhiều có thể gây thiếu máu, đặc biệt ở gia súc bị ve kí sinh nhiều có thể giảm khả năng sinh truởng, giảm sản lượng sữa (bò, dê, ngựa…).
Độc tố của ve có thể gây liệt (liệt tạm thời), hay gặp ở trẻ em, đôi khi liệt cơ hô hấp có thể gây tử vong; liệt xuất hiện sau khi bị ve đốt 5 – 7 ngày, gây tê liệt ở chân và ảnh hưởng đến khả năng nói, nuốt và thở. Bệnh xảy ra phổ biến trên thế giới, nguy hiểm ở trẻ em dưới 2 tuổi. Điều trị bằng cách lấy ve ra khỏi cơ thể.
Phòng chống ve.
Khi lao động hoặc đi qua nơi có ve hoạt động, định kì khoảng 50 phút 1 lần cần nghỉ để bắt ve trên thân thể, quần áo; tốt nhất là 2 người kiểm tra cho nhau. Khi đã bị ve đốt, nhẹ nhàng lấy kim châm hoặc đốt vào thân ve để ve tự nhả ra, tránh dứt mạnh làm đầu giả của ve bị đứt lại trong da gây viêm đau.
Dùng hoá chất xua côn trùng bôi lên chỗ da hở; không ngồi trực tiếp xuống đất, cỏ…
Phá nơi sinh sản và trú ẩn của ve: lấp khe kẽ trên nền nhà, chuồng chăn nuôi. Bộ đội trú quân ở rừng cần phát quang xung quanh lán trại, nhà và đốt sạch mùn rác.
Diệt ve trên gia súc (trâu, bò, ngựa…), dùng hoá chất diệt côn trùng phun vào nơi có nhiều ve trú ẩn.
Trombiculidae – họ mò
Họ mò – Trombiculidae thuộc bộ ve bét (Acariformes), cho đến nay trên thế giới đã phát hiện hơn 3000 loài, trong đó có 19 loài truyền bệnh sốt mò (sốt phát ban Tsutsugamushi do R.tsutsugamushi) phân bố ở nhiều nơi trên thế giới.
Mò thường kí sinh ở các thú nhỏ, chủ yếu là chuột, một số ở chim, gà và bò sát. Mò đốt gây ngứa, dị ứng.
Ở Việt Nam đã phát hiện hơn 106 loài mò, trong đó có 17 loài đặc hữu cho khu hệ mò Việt Nam; có 5 loài trong số 19 loài đã được xác định có vai trò truyền bệnh sốt mò trên thế giới (Nguyễn Văn Châu, 1994).
Một số đặc điểm hình thể của mò:
Thân dính liền thành một khối, có đầu giả, khiên (mai) ở mặt lưng.
Mò trưởng thành và thanh trùng có 8 chân, trên thân phủ đầy lông, kích thước 1 – 1,25 mm.
Ấu trùng mò có 6 chân, kích thước lúc đói 0,25 – 0,5 mm; lúc no kích thước có thể tăng gấp đôi. Thân ấu trùng mò hình bầu dục, có nhiều lông, mặt lưng có 1 khiên, hình dạng khiên biến đổi tùy theo từng loài: 4 cạnh, 5 cạnh hoặc 6 cạnh. Màu sắc của mò khác nhau: vàng, đỏ, trắng…
Cả mò trưởng thành và mò thanh trùng đều không đốt máu người và động vật. Chúng sống trong đất và ăn các bét khác, côn trùng nhỏ hoặc trứng bét. Ấu trùng mò hút máu ở da. Trứng sau khi nở ra ấu trùng, ấu trùng bò lên cỏ hoặc những bụi cây thấp, đám lá mục để đợi vật chủ là người hoặc động vật. Mò bám chặt vào da của bò sát, chim, thú, người đi qua hoặc nghỉ lại ở nơi chúng sống.
Ở người chúng chọn nơi bám là những nơi quần áo bó sát vào da, thắt lưng và mắt. Thời gian ấu trùng mò bám vào da vật chủ để hút máu từ 2 ngày đến 1 tháng tùy theo từng loài. Sau khi no, chúng rơi xuống, chui vào đất, phát triển thành thanh trùng và trưởng thành.
Mò phân bố rải rác trong những vùng rất nhỏ vì nhu cầu riêng của chúng. Mò thanh trùng và trưởng thành cần có điều kiện nhất định để sống, còn ấu trùng cần có những động vật làm vật chủ như: chuột hoang, các loài động vật gặm nhấm nhỏ và chim. Nơi thích hợp cho mò trưởng thành là những đồng cỏ, những vùng cây bụi, rừng, đồng lúa tốt tươi và những cánh rừng đã bị phát quang. Mò còn thấy cả ở những công viên, vườn, bãi cỏ và những nơi ẩm dọc theo bờ hồ, bờ suối. Vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới, các bụi tre là những nơi mò rất ưa thích.
Ở Việt Nam đã phát hiện hơn 106 loài mò thuộc 23 chi, 2 phân họ của họ Trombicuidae. Số lượng tập trung chủ yếu ở 2 chi: Leptotrombidium (28 loài) và Gahrliepia (20 loài).
Trong số 106 loài, mới xác định loài Leptotrombidium deliense là vector truyền bệnh.
Leptotrombidium deliense
Là loài mò đỏ, phân bố rộng rãi ở khu vực phía Bắc Việt Nam.
Đặc điểm hình thể.
Ấu trùng Leptotrombidium deliense có thân hình trứng, màu đỏ, khiên nằm ở phía trước thân. Khiên có hình chữ nhật, cạnh trước hơi lõm, cạnh sau hình cung. Trên khiên có 5 lông, trong đó 4 lông mọc ở 4 góc và 1 lông nằm ở giữa cạnh trước. Ngoài ra còn có 2 lông cảm giác, ngọn lông có phân nhánh. Mặt lưng có 28 lông xếp thành 6 hàng có thứ tự từ trên xuống dưới như sau: 2 – 8 – 6 – 6 – 4 –
Hai bên khiên có mắt. Mặt bụng có 18 – 20 lông.
Đặc điểm sinh học.
Mò phát triển qua 4 giai đoạn: trứng – ấu trùng – thanh trùng và trưởng thành.
Mò thanh trùng và trưởng thành sống tự do, ăn thực vật rữa nát hoặc trứng các loài côn trùng nhỏ khác. Chỉ có ấu trùng mò mới sống kí sinh hút máu, dịch mô hoặc tổ chức bị phá hủy (mò kí sinh rất lâu từ 2 ngày đến 2 tháng).
Để ăn no, ấu trùng mò L. deliense cần trung bình từ 2 – 6 ngày. Sau khi ăn no, ấu trùng rơi xuống đất, chui xuống đất mùn. Sau khoảng 12 ngày, ấu trùng lột xác thành thanh trùng; sau khoảng 30 ngày thanh trùng lột xác và phát triển thành mò trưởng thành. Ở nhiệt độ 22 – 300C, độ ẩm 100% thời gian hoàn thành vòng đời khoảng 3 tháng. Ấu trùng sống được khoảng 9 tháng.
Hình : Vòng đời mò đỏ L.deliense
Mò đực sau 1 – 6 ngày xuất túi tinh ra môi trường có mùi hấp dẫn mò cái. Mò cái dùng chân đẩy túi tinh vào lỗ sinh dục. Sau 1 tuần mò cái đẻ trứng. Mò cái đẻ liên tục trong nhiều tháng, tổng cộng khoảng 500 trứng ở điều kiện 23 – 250C. Trung bình mỗi ngày mò đẻ 1- 3 trứng. Sau 1- 3 tuần trứng nở ra ấu trùng.
Mò có tính chọn lọc vật chủ kí sinh: mò ưa kí sinh ở động vật gặm nhấm, động vật ăn côn trùng. Mò cũng có thể kí sinh ở gà, chim, dơi và các loài bò sát. ấu trùng mò L. deliense thích kí sinh trên chuột nhà (Rattus flavipectus) và một số loài chuột khác sống người.
Ấu trùng mò cũng có tính chọn lọc vị trí kí sinh: ở chuột mò thường kí sinh trong lỗ tai, quanh mắt, quanh vú. Ở người, mò thường kí sinh ở nách, rốn, bẹn… Nói chung ấu trùng mò có xu hướng thích kí sinh ở nơi da mềm, ẩm của vật chủ.
Ấu trùng mò ưa vật thể màu đen, nơi có ánh sáng và CO2.
Cách ăn của ấu trùng mò: ấu trùng cắm vòi vào da vật chủ, tiết men theo nước bọt làm tan rữa mô của vật chủ tạo thành một ống dẫn, trong có chứa dịch lỏng của mô, máu và nước bọt. Mò hút chất dịch đó vào dạ dày, rồi lại tiết nước bọt ra theo ống dẫn làm phá hủy sâu hơn tổ chức, mô của vật chủ. Nơi bị kí sinh lúc đầu là một sẩn tịt có đường kính 3 – 6 mm, sau đó hình thành bọc nước ở giữa, xung quanh tấy đỏ, đau, ngứa, khó chịu. Cuối cùng bọc nước vỡ ra để lại một vết loét đặc hiệu có giá trị chẩn đoán bệnh. Ấu trùng mò chỉ kí sinh ở vật chủ 1 lần, ăn cho đến no mới rời vật chủ.
Mò thường không phát tán rải rác, chúng thường tập trung hoạt động trong phạm vi có đường kính 3 m, gọi là ổ mò. Tuy nhiên, do nước lũ hoặc do vật chủ hoạt động, mò có thể đi xa hơn đến nơi mới. Ở khu vực có điều kiện thích hợp, có thể hình thành nhiều ổ mò.
Mò L. deliense phát triển quanh năm, nhưng cao nhất trong mùa hè từ tháng 5 đến tháng 8. Ở nơi có khí hậu 2 mùa: mưa và khô, mò phát triển mạnh vào mùa mưa.
Khu vực phân bố của mò: ở vùng núi thường gặp ở thung lũng, ven suối, gần nguồn nước, gần làng bản là những nơi có vị trí thấp, râm mát, có độ ẩm cao, cây cỏ rậm, có nhiều chuột hoạt động; ở vùng đồng bằng, thành phố, gặp ở những bãi, vườn hoang có nhiều hồ ao, cây cỏ rậm rạp, có nhiều chuột qua lại; ở vùng bờ biển thường gặp ở bãi lầy, rậm ở ven đê hay bị ngập nước và có nhiều chuột.
Vai trò y học.
Mò kí sinh gây ngứa, khó chịu, tạo vết loét dễ gây nhiễm trùng. Vết loét kéo dài 2 – 3 tháng mới khỏi.
Mò hút máu của các động vật mang mầm bệnh trong tự nhiên như chuột, các thú nhỏ… Rickettsia tập trung lên tuyến nước bọt của mò và truyền được cho người.
Mò đã nhiễm mầm bệnh sẽ mang mầm bệnh Rickettsia trong suốt quá trình phát triển từ giai đoạn thanh trùng (nhộng) cho đến trưởng thành, thậm chí truyền cho cả mò tự do khác chỉ sống tự do ăn trứng và côn trùng nhỏ; truyền cả Rickettsia cho trứng và thế hệ sau.
Mò truyền bệnh sốt mò Tsutsugamushi, còn gọi là bệnh sốt triền sông Nhật Bản. Mầm bệnh là Rickettsia orientalis.
Biểu hiện lâm sàng: sốt cao, nhức đầu, nổi hạch ở nách, bẹn gần chỗ mò đốt. Sau 4 – 5 ngày sốt có nổi ban. Đôi khi bệnh diễn biến nặng có thể hôn mê và chết vào khoảng ngày thứ 9 đến ngày thứ 15 của bệnh.
Đây là bệnh có ổ bệnh thiên nhiên. Mầm bệnh được truyền cho thế hệ sau, nhờ đó nhờ mới có khả năng truyền bệnh sốt mò vì cả đời mò chỉ kí sinh hút máu có 1 lần.
Mò hút máu các động vật mang mầm bệnh trong tự nhiên như: chuột, các thú nhỏ… làm mò bị nhiễm mầm bệnh. Mò đã mang mầm bệnh có thể mang mầm bệnh suốt quá trình phát triển từ giai loạn trứng cho đến trưởng thành.
Thậm chí mò có thể truyền mầm bệnh cho mò trưởng thành sống tự do và chỉ ăn côn trùng và động vật chân đốt nhỏ; truyền mầm bệnh Rickettsia cho thế hệ sau thông qua trứng.
Ở Việt Nam phát hiện nhiều ổ bệnh sốt mò suốt từ miền Bắc đến miền Nam: Mộc Châu (Sơn La), Quảng Ninh, Thanh Hoá, Đồ Sơn, Tây Nguyên…
Nguồn bệnh chủ yếu là chuột, vật môi giới là mò L. deliense.
Phòng chống.
Vệ sinh, phát quang quanh nhà ở, nơi tắm, bến nước. Triệt phá ổ mò xung quanh làng bản, nơi đóng quân; thường xuyên diệt chuột (vật chủ của mò).
Dùng hoá chất xua côn trùng DMP, DETA bôi lên da khi phải tiếp xúc với mò. Khi hành quân, lao động, lúc nghỉ ngơi không ngồi bệt xuống đất, cỏ.
Phun hoá chất diệt côn trùng để diệt mò.
Điều trị sốt mò bằng clormycetin, tetracycline.
Gamasidae – họ mạt
Mạt là những động vật chân đốt nhỏ, sống tự do trong mùn đất hoặc sống kí sinh ở các động vật máu nóng, đôi khi kí sinh ở người. Ở nước ta đã phát hiện 36 loài mạt (Grakhovskaia, 1956), nhưng phổ biến hơn cả là mạt gà và mạt chuột.
Mạt gà – dermanysus gallinae.
Hình thể:
Kích thước: con đực 0,6 x 0,2 mm; con cái 0,75 x 0,4 mm.
Thân có hình trứng, đầu nhỏ, bụng có lông ngắn, thưa. Chân ngắn khoẻ, hai chân trước gần bằng chiều dài của thân, ống thở dài tới gốc đôi chân thứ hai (hình 15.5). Màu trắng, đỏ hoặc tím tùy theo lúc mạt đói hay no.
Sinh lí, sinh thái:
Mạt hoạt động về đêm. Ban ngày mạt trú ẩn ở các tổ chim, ổ gà, khe vách chuồng gà… đêm đến bò ra đốt chim, gà, đôi khi đốt cả người.
Mạt có khả năng nhịn đói nhiều tuần. Khi đói lâu, mạt không đốt được người nhưng bò trên người gây cảm giác ngứa ngáy, khó chịu.
Vai trò gây bệnh và truyền bệnh
Nước bọt của mạt rất độc với gà, nếu nhiều có khả năng làm chết gà trong vòng 24 giờ, nhất là vào cuối mùa hạ. Mạt đốt người gây ngứa dữ dội và tạo những đám nổi mẩn mọng nước.
Ở Việt Nam, mạt gà có nhiều nhưng vai trò truyền Dermanysus gallinae.
Hình : Mạt gà |
Mạt có khả năng truyền bệnh viêm não – màng não cho người. bệnh chưa rõ.
Mạt chuột – dermanyssus sanguineus.
Con đực nhỏ hơn con cái; thân hình trái xoan, màu nâu vàng.
Mạt chuột thường kí sinh trên chuột đen (Rattus rattus), chuột cống (Rattus norvegicus) phổ biến ở nước ta.
Mạt chuột có khả năng truyền bệnh đậu do Rickettsia (giống bệnh thủy đậu) và bệnh sốt phát ban chuột.
Một số tác giả đã phân lập được mầm bệnh sốt phát ban do virut Liponyssus bacoti, bệnh truyền từ chuột sang người.
Phòng chống.
Vệ sinh chuồng chim, chuồng gà, lấp hang chuột, diệt chuột thường xuyên.
Khi làm việc gần chuồng gà, chim cần dùng các hoá chất xua diệt côn trùng để phòng mạt đốt.
Phun DDT hoặc xông hơi diêm sinh vào chuồng gà, chuồng chim để diệt mạt.
Sarcoptoidae – họ ghẻ
Loài cái ghẻ Sarcotes scabiei kí sinh trên người gây bệnh ghẻ.
Sarcoptes scabiei
Đặc điểm hình thể.
Gần như không thể nhìn thấy cái ghẻ bằng mắt thường. Cái ghẻ có thân hình bầu dục hoặc gần tròn (hình 15.6). kích thước: con cái 0,33 – 0,45 x 0,25 – 0,35 mm; con đực 0,2 – 0,24 x 0,15 – 0,20 mm.
Màu vàng nhạt, mình ngắn, lưng gồ, không có mắt, không có lỗ thở, có nhiều lông dài.
Đặc điểm sinh học.
Cái ghẻ đào hang trong da để đẻ trứng, mỗi ngày đẻ 1 – 2 trứng, cả đời đẻ 40 – 50 trứng. Sau 3 – 4 ngày trứng nở ra ấu trùng, sau 3 – 10 ngày ấu trùng phát triển thành thanh trùng (nhộng), khoảng ngày thứ 21 đến ngày thứ
22 thành ghẻ trưởng thành. Sau giao phối, ghẻ cái phải lột xác lần nữa mới đào hang để đẻ trứng. Mỗi ngày ghẻ cái có thể đào hang dài 2 – 10 mm. Đời sống của cái ghẻ khoảng 2 – 5 tuần. Ghẻ đào hang về đêm.
Hình : Sarcoptesscabiei
Cái ghẻ có khả năng kí sinh trên nhiều loài vật chủ khác nhau: người, động vật nuôi và động vật hoang dã…, hình thể rất thay đổi (quan sát KHV điện tử), do đó có thêm nhiều tên phụ loài như: Sarcoptes scabiei hominis, S. scabiei equi, S. scabiei ovis…
Tất cả các giai đoạn phát triển đều có khả năng đào hầm trong da, nhất là con cái đã thụ tinh đào những đường hầm rất đặc trưng . Gần như toàn bộ đời sống của cái ghẻ là ở trên và trong da người, rời cơ thể vật chủ nó chỉ sống thêm được vài ngày.
Hình : Hang ghẻ.
Có thể nhận biết bằng cách dùng mũi dao nhọn, kim để lẩy ở vài chỗ da nghi ngờ, chuyển lên lam kính và soi kính hiển vi. Cũng có thể dùng dầu mỏ để kiểm tra sự nhiễm ghẻ. Có thể dùng mực bôi lên vùng da nghi ngờ rồi rửa đi để phát hiện các hang ghẻ.
Tác hại.
Sarcoptes scabiei gây bệnh ghẻ. Cái ghẻ khi đào hang tiết ra chất độc gây hủy hoại mô, chúng dùng chân để đào gây ngứa dữ dội về ban đêm. Ghẻ thường đào hang ở kẽ ngón tay, bàn tay, bìu… Do ngứa nhiều, gãi nhiều, da bị xây xát dễ bị nhiễm trùng, mưng mủ gọi là ghẻ mủ.
Bệnh lây lan là do tiếp xúc, nằm cùng giường, bắt tay, chung đụng đồ dùng… Bệnh gặp nhiều ở những khu dân cư có mức sống thấp, nhà ở chật hẹp, điều kiện vệ sinh thấp kém.
Một dạng ghẻ khác hiếm gặp là ghẻ Na Uy: nó kết hợp số lượng lớn cái ghẻ với những vẩy, nắp rõ nét, đặc biệt ở lòng bàn tay, bàn chân. Bệnh xảy ra ở người thiếu hụt miễn dịch (như nhiễm HIV) nhiều hơn ở người có hệ miễn dịch bình thường.
Phòng chống.
Giữ vệ sinh thân thể, quần áo… tắm giặt thường xuyên, luộc quần áo…
Khi mắc bệnh ghẻ có thể áp dụng kinh nghiệm dân gian dùng các loại lá đắng (lá chuối, ba gạc…) nấu nước tắm hoặc ngâm chân, tay bị ghẻ.
Bôi mỡ lưu huỳnh hoặc DEP (diethylphtalat), bôi dầu permethrine 5% điều trị.
Thường khi nhiễm ghẻ phải điều trị cho cả gia đình hoặc tập thể.
Nên điều trị 2 đợt cách nhau từ 2 – 7 ngày. Các thuốc nên bôi để 15 phút cho khô mới mặc quần áo, đến hôm sau mới rửa.