Ve (Acari: Ixodoidea) là một trong các loài véc tơ truyền bệnh quan trọng cho cả người và động vật (Sonenshine, 1991). Bệnh lây truyền cho vật nuội bởi ve là một vấn đề quan trọng gây nhiều thiệt hại cho ngành chăn nuôi ở nhiều vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới. Ở người, Ve có thể gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng như làm tê liệt, nhiễm độc, kích ứng và dị ứng, và chúng có khả năng truyền một số bệnh truyền nhiễm nguy hiễm mà được xem là một vấn đề lớn của y tế công cộng. Các loài ve thường đốt người là các véc tơ lan truyền vi rút, Rickettsia, vi khuẩn và đơn bào
Các vết đốt của ve mềm đặc biệt là giống Argas và Ornithodoros là nguyên nhân gây ra dị ứng, mụn, vết thâm tím và ngứa nhiều, lan truyền các dịch bệnh. Các giống ve này thường được tìm thấy trong các tổ và hang của các loài chim, động vật ngậm nhấm và nhà ở của con người tại các vùng nông thôn. Argas monolakensis, Ornithodoros coriaceus, Ornithodoros erraticus và Ornithodoros moubata, đây là những loài ve mềm thường đốt người. Ve cứng thường đốt người khi chúng ta tiếp xúc với thảm thực vật ở các vùng rừng. Các loài ve cứng hay đốt người là Amblyomma americanum và A.hebraeum, Dermacentor andersoni và D. variabilis, Hyalomma anatolicum và H.marginatum, Haemaphysalis spinigera, và Ixodes scapularis, I. ricinus, I. persulcatus và I. holocyclus.
Ve truyền nhiều tác nhân gây bệnh là vi sinh vật hơn bất kỳ nhóm véc tơ chân đốt khác. Một số bệnh chính được truyền bởi ve mềm (chủ yếu là Ornithodoros) như bệnh sốt hồi quy gây ra bởi vi khuẩn thuộc giống Borrelia, Giống Ixodes truyền vi rút gây viêm não ở châu Âu và một số bệnh viêm não mùa hè, mùa xuân ở Nga. Một số vi rút khác như vi rút gây sốt xuất huyết Crimean-Congo do giống ve Hyalomma spp., bệnh xuất hiện rải rác khắp nơi ở châu Phi, châu Á và châu Âu, bệnh có thể gây tử vong. Một số vi rút có khả năng gây chết người thuộc nhóm flavivirus được lan truyền bởi giống ve Haemaphysalis gây Bệnh rừng Kyasanur ở Ấn Độ. Những bệnh do vi khuẩn, chẳng hạn như bệnh Lyme do Borrelia burgdorferi sensu lato, xảy ra tại Hoa Kỳ, châu Âu và châu Á và được lan truyền bởi giống ve Ixodes. Các bệnh rickettsia do ve truyền như sốt phát ban miền núi Rocky, bệnh này gây chết người nhưng có thể điều trị được, bệnh phổ biến khắp miền Đông Hoa Kỳ, được lan truyền bởi giống ve Dermacentor. Một bệnh rickettsia khác là sốt boutoneuse do Rickettsia conorii gây ra, bệnh này xuất hiện chủ yếu ở châu Âu. Ở Nam Phi, giống ve Amblyomma lan truyền Rickettsia africae, trong khi loài ve Dermacentor reticulatus lan truyền sốt xuất huyết Omsk do tác nhân gây bệnh là Rickettsia sibirica ở Liên Xô cũ gây ra. Hai bệnh rickettsia khác là monocytic và Ehrlichiosis granulocytic, do tác nhân gây bệnh Ehrlichia chaffeensis và Ehrlichia phagocytophila gây ra, đã được phát hiện gần đây. E. chaffeensis được lan truyền bởi loài ve Amblyomma americanum, trong khi E. phagocytophila được lan truyền bởi loài ve Ixodes scapularis ở Mỹ, và Ixodes ricinus ở châu Âu. Các bệnh đơn bào do ve lan truyền đóng một vai trò tương đối nhỏ; Babesia divergens và B. microti đều được lan truyền bởi giống ve Ixodes tại Mỹ và châu Âu, và có thể là các loài ve khác.
Ve mềm (argasidae)
Giống argas
Argas monolakensis là một loài loài ve mềm đốt người có vai trò y học quan trọng. Nó là véc tơ lan truyền vi rút hồ Mono và xuất hiện tại California, Mỹ (Schwan và cs., 1992a). Argas moreli và Argas neghmei là 2 loài ve đã được phát hiện là ký sinh ở người tại Peru và Chile, nơi mà con người sống chung vời gà (Kohls và Hoogstraal, 1961; Keirans và cs., 1979). Loài ve A. cucumerinus khi đốt gây ngứa kéo dài trong vài tuần (Clifford và cs., 1978).
Các báo cáo xác thực về loài ve Argas persicus ký sinh ở người là rất hiếm. Trong số gần 300 trường hợp người bị ve đốt ở miền Tây Siberia, chỉ có hai (ở Omsk) trong đó có A. persicus (Fedorov, 1968). Mặc dù tác nhân gây bệnh là vi rút và Rickettsia đã được tìm thấy trong loài ve A. persicus thu thập ngoài tự nhiên, điều này không có nghĩa là A. persicus là một véc tơ lan truyền các tác nhân gây bệnh này. Argas reflexus là một loài ve mềm được tìm thấy trên người, đặc biệt là sau khi người ta xua đuổi chim bồ câu ra khỏi các tòa nhà ở châu Âu. Khi chim bồ câu không còn ở trong gác xếp của các ngôi nhà cổ nữa thì lúc này ve phải tìm kiếm chủ mới và chúng xuất hiện trên rèm cửa và cửa sổ (Roman và cs., 1960). Hơn nữa, trường hợp sốc phản vệ do loài ve A. reflexus đốt người đã tiết ra một loại độc tố không xác định, đã được báo cáo ở Ý (Miadonna và cs., 1982) và Ba Lan (Grzywacz và Kuzmicki, 1975). Khi những con chim bồ câu bị Argas polonicus ký sinh di chuyển đến Krakow, Ba Lan và phát tán loài ve này tại đây. Argas polonicus thường xuyên đốt người người gây ra các triệu chứng như đỏ da, sốt, suy nhược và tiêu chảy (Siuda và cs., 1982). Argas vulgaris, loài ve này có quan hệ chặt chẽ với loài ve A. polonicus, nó cũng đốt người và đã được báo cáo ở các nước thuộc Liên Xô củ (Filippova, 1966).
Argas boueti thường ký sinh trên con dơi, mặc dù Hoogstraal (1956) tìm thấy nó ký sinh trên người ở Ai Cập. Argas vespertilionis, ký sinh trên dơi và có khả năng loài này thích đốt người (Hoogstraal, 1985). Argas vespertilionis ký sinh trên người được tìm thấy ở Iraq (Keirans, 1984), Liên Xô cũ (Galuzo, 1957) và châu Phi (Hoogstraal, 1956). Tại Tây Ban Nha, hai con ve A. vespertilionis trưởng thành được tìm thấy khi chúng đang đốt trên cánh tay của một người đàn ông sống ở một vùng quê thuộc tỉnh tỉnh Huesca, nơi có nhiều dơi (Eptesicus serotinus và Pipistrellus pipistrellus) sống dưới mái nhà (A. Estrada-Pen~ một, quan sát chưa công bố). Một số người bị ve A. brumpti đốt xuất hiện vết thâm tím rộng từ vết đốt sau khi họ ngủ qua đêm tại một hang động ở Zimbabwe (Condy và cs, 1980).
Giống ornithodorus
O. boliviensis và O. kelleyithường ký sinh ở dơi, và chỉ đốt người khi người đi vào hang động hoặc nhà có dơi sinh sống (Hoogstraal, 1985). Giống ve được xem là loài ngoại ký sinh chính của người ở New World, và là véc tơ lan truyền một số bệnh như sốt hồi qui gây ra bởi nhóm xoắn khuẩn Borrelia. Sốt hồi qui là bệnh lan truyền từ động vật (động vật có vú, đặc biệt là gặm nhấm) sang người. (Sonenshine, 1993). Vì hầu hết giống ve mềm Ornithodoros là những ký sinh trùng ở trong ổ một thời sau khi nở ra, con người có mối liên quan đặc biệt vào chu trình lan truyền của ve do con người đi vào môi trường sống của chúng. Do đó, dịch tễ học đặc trưng đã được ghi nhận từ các ổ dịch rải rác bên trong vùng dịch tễ (Burgdorfer, 1986). Xoắn khuẩn Borrelia tồn tại trong các véc tơ là ve mềm trong nhiều năm, có thể suốt cả đời của ve. Như vậy, tuổi thọ càng lâu và các tập tính phức tạp của giống ve Ornithodoros làm kéo dài dịch bệnh trong vùng lưu hành.
Bảng 1. Tóm tắt một số loài ve mềm có vai trò y họcvà phân bố địa lý.
Loài |
Tác nhân gây bệnh |
Phân bố |
Argas monolakensis |
Vi rút hồ Mono |
MiềnTây Hoa Kỳ |
A. reflexus |
Đông Nam châu Âu |
|
Ornithodoros asperus |
Borrelia caucasica |
Vùng Caucasus, Iraq |
O. capensis |
Vi rút Soldado |
khắp thế giới |
O. coriaceus |
Borrelia coraciae |
Dọc bờ biển Thái Bình Dương của Hoa kỳ cho đến Mexico |
O. erraticus |
Borrelia crocidurae |
Bắc và Đông châu Phi, Cận Đông, Đông Nam châu Âu |
O. erraticus |
Borrelia hispanica |
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha |
O. hermsi |
Borrelia hermsi |
Miền Tây Hoa Kỳ |
O. maritimus |
Vi rút Soldado |
Pháp |
O. moubata |
Borrelia duttoni |
Đông Phi và Nam Phi |
O. tartakovskyi |
Borrelia latyschevi |
Trung Á |
O. turicata |
Borrelia turicatae |
Tây Nam Hoa Kỳ, Trung Mỹ |
O. savignyi |
– |
Châu Phi và một số vùng của châu Á |
Ornithodoros coriaceus phân bố dọc theo các bờ biển Thái Bình Dương của Hoa Kỳ cho đến Mexico. Vết thương do ve đốt rất đau, O. coriaceus lan truyền Borrelia coriaciae, nguyên nhân gây sảy thai ở bò (Furman và Loomis, 1984). Ornithodoros hermsi xuất hiện ở các bang của Mỹ như California, Nevada, Idaho, Oregon, Utah, Arizona, Washington và Colorado, cũng như ở Canada, và là véc tơ chính lan truyền Borrelia hermsi (Schwan và cs., 1992b). O. hermsi được tìm thấy trong những hốc cây chết, cabin và những chổ trú ngự của con người, và thường ký sinh trên các loài sóc cây. Những người hay săn bắt các loài gặm nhắm dễ bị nhiễm B. hermsi (Sonenshine, 1993). Vi khuẩn Borrelia parkeri, được lan truyền qua vết đốt của Ornithodoros parkeri (miền tây Hoa Kỳ, California).
Ornithodoros talaje phân bố khắp các bang phía Tây nước Mỹ, Mexico, Venezuela, Uruguay, Brazil, Panama, Ecuador, Chile và Argentina. O. talaje có thể lan truyền Borrelia talaje ở một vài nơi thuộc khu vực miền Trung và phía Nam nước Mỹ, mặc dù ve trưởng thành đôi khi tìm thấy ở những nơi cư trú của con người nhưng nó không thích ký sinh người. Ornithodoros turicata sống ở vùng phía Tây Nam của Hoa Kỳ và Trung Mỹ, và là một véc tơ lan truyền Borrelia turicatae. Giống Borrelia được lan truyền chủ yếu qua dịch nước bọt và không lan truyền qua dịch ở háng. Một vài đợt bùng phát của loài ve này đã được ghi nhận ở nước Mỹ, như ở Oklahoma, nơi mà O. turicata tràn vào nhà cửa vườn tược, khoa bãi và nhà kho làm cho tất cả các gia đình bị sốt hồi qui (Burgdorfer, 1980). Vết đốt của O. turicata thì không đau, nhưng sau đó vài giờ tại vị trí đốt bị kích ứng, sưng và các nốt sần dưới da có thể tồn tại nhiều tháng (Cooley và Kohls, 1944).
Ornithodoros amblus đôi khi đốt người đã được ghi nhận ở Peru (Clifford và cs., 1980). Ornithodoros rudis phân bố khắp Panama, Paraguay, Colombia, Venezuela, Peru và Ecuador và là véc tơ chính lan truyền Borrelia venezuelensis, mặc dù các nghiên cứu về lâm sàng và dịch tễ chưa đầy đủ (Hoogstraal, 1985). O. rudis dường như thích ký sinh ở người, nhưng chúng thường đốt động vật có vú khác. Ornithodoros rostratus ký sinh ở người tại khu vực Nam Mỹ, chúng nỗi tiếng với vết đốt rất đau, sau đó trở nên ngứa và dễ bị nhiễm trùng. O. rostratus có thể lan truyền R. rickettsii (Hoogstraal, 1985).
Ở vùng Caucasus và Iraq, Ornithodoros asperus sống ở các hang động của động vật gặm nhấm, lan truyền Borrelia caucasica, vi khuẩn này có thể gây bệnh nặng ở người và thường tái đi tái lại. Ornithodoros coniceps đã được ghi nhận về việc đốt người ở Pháp và Tây Ban Nha (Gil Collado, 1947; Keirans, 1984), thường những người ngủ trong hang động nơi chim bồ câu làm tổ. Tại vị trí đốt bị phù nề và đau kèm theo ớn lạnh từ vài giờ cho đến 3 ngày (Hoogstraal và cs., 1979).
Ornithodoros erraticus đốt người ở Tây Ban Nha và một số nơi ở châu Phi. Vết đốt của ấu trùng ve này có thể dẫn đến các phản ứng dị ứng, theo quan sát trên một bệnh nhân ở Tây Ban Nha (A. Estrada-Pen˜ a, dữ liệu chưa công bố). Loài này lan truyền Borrelia crocidurae (Bắc và Đông Phi, Cận Đông, bao gồm cả Đông Nam châu Âu) và Borrelia hispanica (Tunisia, Algeria, Morocco, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha). Các báo cáo về trường hợp người bị sốt hồi qui do B. crocidurae trở nên hiếm hoi ở Đông Bắc châu Phi, tại đây căn bệnh này đã giảm kể từ thập niên 1940. Tuy nhiên, theo báo cáo của Trape và cộng sự (1991) thì B. Crocidurae phân bố khắp nơi ở Senegal, tại đây sốt hồi qui dường như là một bệnh chính trong các bệnh phổ biến ở các vùng nông thôn. Mối quan hệ dịch tễ học giữa B. hispanica và ve vẫn còn mơ hồ. Anda và cộng (1996) đã báo cáo là phân lập được một loài Borrelia mới từ những bệnh nhân bị bệnh sốt hồi qui và từ ve Ornithodoros spp. ở miền Nam Tây Ban Nha. Tác nhân gây bệnh này có liên quan chặt chẽ với các loài xoắn khuẩn gây sốt phát ban do ve truyền ở châu Âu và châu Phi, và gây ra một căn bệnh giống bệnh Lyme về mặt huyết thanh học.
Ornithodoros maritimus thường được tìm thấy trên các loài chim biển, nhưng cũng có trường hợp loài này đã đốt người được ghi nhận ở Pháp (Chastel và cs., 1984). Nó lan truyền vi rút Soldado, đây là một vấn đề y tế công cộng của môi trường đô thị đặc biệt ở những nơi mà mồng biển hay kiếm ăn. Ornithodoros lahorensis là loài ngoại ký sinh phổ biến của những người nông dân ở khắp mọi nơi trên đất nước Liên Xô củ và loài này có thể nhiễm Rickettsia sibirica bằng thực nghiệm (Sidorov và Kokorin, 1980). Ornithodoros tartakovskyi, phân bố hầu khắp Trung Á, có thể bị nhiễm Borrelia latyschevi tác nhân gây sốt hồi qui của Trung Á, thường có triệu trứng nhẹ.
Ornithodoros tholozani thường sống ở những nhà kho, hang động, mõm đá nhô ra và các chỗ khác (Arthur, 1962). Loài này phân bố từ Trung Quốc đến miền Đông Libya, và nó lan truyền Borrelia persica, tác nhân gây sốt hồi qui Ba Tư, diễn tiến của bệnh thường nặng và đôi khi gây tử vong.
Ornithodoros capensis là ve ký sinh ở các loài chim biển khắp thế giới (Keirans và cs., 1992), đã có trường hợp ký sinh ở người. Nghiên cứu của Chastel và cộng sự (1981) về vi rút Soldado, ông cho rằng loài ve O. capensis là một vấn đề sức khỏe cộng đồng nguy hiểm, nhất là ở những vùng đô thị có mồng biển. Khách du lịch tham quan những hang động hay bờ biển hoan dại nơi sinh sản của chim cánh cụt thì dễ bị thanh trùng và con trưởng thành của loài Ornithodoros spheniscus đốt với biểu hiện ngứa sau khi đốt, mụn nước chậm lành (Hoogstraal và cs., 1985).
Ornithodoros moubata, đây là loài phổ biển ở châu phi, nó phân bố khắp Đông Phi, Madagascar và khắp các vùng thuộc miền Nam châu Phi, chúng lan truyền Borrelia duttoni, đây là tác nhân gây hồi hồi qui châu Phi. Giống Borrelia này dường như chỉ lưu hành qua lại giữa người và loài O. moubata sống ở những nơi cư trú của con người (Felsenfeld, 1971). B. duttoni được lan truyền qua dịch háng của thanh trùng và con trưởng thành và nước bọt của thanh trùng (Burgdorfer, 1951). Ở Kenya và các nước lân cận phía Đông châu Phi, loài ve O. moubata nhiễm xoắn khuẩn sống trong các vết nứt và khe hở của những túp lều của người dân bản địa (Walton, 1962).Theo báo cáo của Walton, ngày nay những thay đổi về cấu trúc nhà ở đã làm giảm đáng kể bệnh sốt hồi qui. Mặc dù vi rút viêm gan không nhân lên trong cơ thể O. moubata, việc lan truyền vi rút này theo cơ chế cơ học từ ve sang người qua việc nghiền nát ve khi ve đốt hoặc khi ve đốt các dịch háng của ve được tiết ra dính lên người và ta gãi sẽ bị nhiệm qua vết đốt của ve (Jupp và cộng sự, 1987). Joubert và cộng sự (1985) phát hiện vi rút viêm gan trong cơ thể O. moubata thu thập ở Đông Bắc Namibia và cho rằng chính cơ chế lan truyền cơ học có thể lan truyền vi rút này nên tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan của người dân sống trong khu vực cao.
Ornithodoros muesebecki được thu thập trên người ở Ả Rập (Hoogstraal, 1982), vết đốt của ve này gây ra mụn, ngứa và sốt. Vẫn chưa xác định được có phải chính các chất độc hay tác nhân gây bệnh có trong nước bọt của ve gây ra hay không. Ornithodoros savignyi được tìm thấy tại nơi ở của người ở Ấn Độ, châu Phi và một số vùng của châu Á (Keirans, 1984; Hoogstraal, 1985) và gây hiện tượng kích ứng tại vị trí ve đốt trên người (Hoogstraal, 1956). Hơn nữa, ở những vùng khô hạn của châu Phi và châu Á O. savignyi thường đốt người khi chúng ta nghỉ ngơi dưới bóng râm và xung quanh nơi nhốt giữ động vật… Vết đốt của loài này có thể gây ngứa dữ dội và kéo dài (G. Uilenberg, chưa được công bố ở Somalia). Các triệu chứng khác tương tự như vết đốt của loài Ornithodoros gurneyi Úc (Roberts, 1970).
Giống otobius
Giống này được tìm thấy ở phía tây của Hoa Kỳ, Mexico và British Columbia (còn được gọi Columbia thuộc Anh, là bang cực tây của Canada, một trong những vùng có nhiều núi nhất Bắc Mỹ), Canada. Tuy nhiên, sự phân bố của ve liên hệ mặt thiết với ngành chăn nuôi chính vì thế nó đã được phát tán khắp các vùng khác nhau trên thế giới (Harrison và cs., 1997). Một bệnh nhân bị tê liệt có liên quan với vết đốt của thanh trùng Otobius megnini ở Nam Phi (Peacock, 1958). Giống ve này phát triển ở tai của một người đàn ông ở Ấn Độ đã được Chellappa báo cáo (1973) và mặc dù gây kích ứng, nhưng không để lại hâu quả nghiêm trọng (Eads và Campos, 1984; Uilenberg và cs, 1980)..
Ve cứng (ixodidae)
Giống amblyomma
Amblyomma americanum phân bố trên toàn miền Trung và các vùng miền Đông của Hoa Kỳ, Một số vùng ở miền Trung và Nam châu Mỹ. Loài ve này rất hung hăng và có 34% ve được thu thập từ nhân viên không quân Mỹ (ve đốt người) trên tổng số ve thu thập ở khắp Hoa Kỳ (Campbell và Bowles, 1994). Ngoài ra 83% ve đốt người được ghi nhận ở Georgia và Nam Carolina là loài ve A. americanum (Felz và cs., 1996). A. americanum có thể mang tác nhân gây bệnh là Francisella tularensis (gây bệnh tularemia) (Goddard, 1987) và Rickettsiarickettsii (gây sốt phát ban Rocky Mountain) (Kardatzke và cs., 1992). Tuy nhiên, A. americanum không phải là véc tơ lan truyền bệnh Lyme (Piesman và Sinsky, 1988) và sốt phát ban Rocky Mountain (RMSF) (Goddard và Norment, 1986). Xoắn khuẩn trong ve A. americanum ở Missouri khác so với xoắn khuẩn B. burgdorferi về mặt kháng nguyên, đặc điểm tăng trưởng trong môi trường nuôi cấy và loài ve thích hợp cho các xoắn khuẩn này phát triển ở điều kiện phòng thí nghiệm (Piesman và Gray, 1994). Tuy nhiên, A. americanum không lan truyền Ehrlichia chaffeensis, một tác nhân gây human monocytic ehrlichiosis (HME) (Ewing và cs., 1995). Ehrlichioses là bệnh lan truyền từ động vật sang người, gây bởi vi khuẩn nội bào bắt buộc thuộc giống Ehrlichia. Bệnh HME là do vi khuẩn E. chaffeensis xâm nhập vào bạch cầu đơn nhân ở máu máu và các mô. Hơn 400 bệnh nhân bị nhiễm E. chaffeensis đã được ghi nhận ở 30 tiểu bang của Hoa Kỳ, cũng như châu Âu và châu Phi (Walker và Dumler, 1996). Bằng chứng để chứng minh ve A. americanum là véc tơ lan truyền vi khuẩn E. chaffeensis được dựa trên các xét nghiệm ở hươu (Odocoileus virginianus) xuất hiện kháng thể chống lại E. chaffeensis, và ở những nơi mà không có loài ve này hiện diện thì hươu không có kháng thể đặc hiệu với E. chaffeensis (Lockhart và cs. ,1996). Người bị nhiễm E. chaffeensis cũng được ghi nhận ở Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha (Morais và cs, 1991; Guerrero, 1992; Saz và cs., 1994). Tuy nhiên, giống ve Amblyomma không hiện diện ở bán đảo Iberia, có thể có một véc tơ khác đã lan truyền vi khuẩn này hoặc những tuyên bố này là không đúng.
Ở miền Nam Hoa Kỳ, việc lan truyền B. burgdorferi cho con người vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Một số nhà nghiên cứu cho rằng A. americanum là véc tơ chính lan truyền bệnh Lyme cho người ở miền Nam nước Mỹ (Masters và cs., 1994) trong khi những nhà khoa học khác đã bày tỏ sự nghi ngờ khả năng lan truyền B. burgdorferi của loài ve A. americanum ở vùng này (Campbell và cs., 1995). Xoắn khuẩn B. Lonestari không nuôi cấy được trên môi trường, người ta đã phát hiện được ve A. americanum nhiễm B. Lonestari (Barbour và cs., 1996) và loài ve này đã được chứng minh không có khả lan truyền B. burgdorferi cho chuột (Piesman và Happ, 1997).
Amblyomma cajennense phân bố ở phía nam Texas, khắp Mexico và từ Trung Mỹ đến một số vùng của Nam Mỹ (Guglielmone và cs., 1991). Tất cả các giai đoạn phát triển của A. cajennense đều đốt người, gây ra một vết thương đau đớn (Goddard, 1989). Ve có thể là một véc tơ lan truyền bệnh RMSF ở miền Tây và miền Trung Mexico và Nam Mỹ (McDade và Newhouse, 1986). Amblyomma maculatum đã được ghi nhận đốt người ở một số vùng của nước Mỹ (Snoddy và Cooney, 1984; Harrison và cs., 1987) và Argentina (Boero, 1945). Nó chính là véc tơ lan truyền Rickettsia conorii cho người ở Uruguay (Conti và cs., 1990) và RMSF tại Mỹ (Loving và cs, 1978)..
Amblyomma hebraeum là một trong những loài ve gây hại quan trọng cho gia súc ở châu Phi và phân bố khắp miền Nam châu Phi. Nó là một véc tơ lan truyền Rickettsia africae (Kelly và cs., 1994). Ấu trùng A. hebraeum (giống ấu trùng A. americanum) thì rất hung hăng và thường đốt vật chủ ở chân, eo với số lượng lớn, gây kích ứng dữ dội, phát ban và đôi khi mụn mủ. Ấu trùng cũng thường đốt người, nhất là khách du lịch đến Nam Phi tham quan. Đã ghi nhận một khách du lịch có các triệu chứng sốt sau 2 tuần bị ấu trùng ve A. hebraeum đốt kết quả xét nghiệm bị nhiễm Rickettsia africae (F. Jongejan, quan sát chưa được công bố năm 1998).
Bảng 2. Các loài ve Amblyomma có vai trò y học và phân bố địa lý.
Loài |
Tác nhân gây bệnh |
Phân bố |
A. americanum |
Ehrlichia chaffeensis |
Hoa kỳ, Trung và Nam Mỹ |
A. hebraeum |
Rickettsia africae |
Nam Phi |
A. maculatum |
Rickettsia conorii |
Uruguay |
A. variegatum |
Vi rút số xuất huyết Crimean-Congo |
Uganda, Senegal, Nigeria, Cộng hòa Trung Phi |
Amblyomma variegatum, một loài ve phổ biến khác ở châu Phi, là véc tơ lan truyền bệnh sốt xuất huyết Crimean Congo (CCHF) ở Uganda, Senegal, Nigeria và Cộng hòa Trung Phi (Linthicum và Bailey, 1994) và đôi khi được tìm thấy trên người.
Amblyomma testudinarium đốt người được ghi nhận ở Nhật Bản (Suzuki và cs., 1990), Malaysia (Audy và cs, 1960;. Keirans, 1984), Trung Quốc (Kuo-Fan, 1991) và Ấn Độ (Dhanda và Rao, 1964). Vai trò truyền bệnh cho người của loài ve này vẫn chưa biết.
Amblyomma tholloni, thường ký sinh trên những con voi ở châu Phi, loài này cũng đốt người và được ghi nhận ở Uganda, Mozambique và Tanzania (Matthysse và Colbo, 1989). Loài này không truyền bệnh cho người.
Bảng 3. Các loài Amblyomma đốt người được ghi nhận ở các nước
Loài |
Phân bố |
Tham khảo |
A. coelebs |
Paraguay |
Keirans, 1984 |
A. cohaerens |
Uganda |
Matthysse and Colbo, 1987 |
A. cyprium |
Papua New Guinea |
Keirans, 1984 |
A. integrum |
Sri Lanka |
Keirans, 1984 |
A. loculosum |
Australia |
Keirans, 1984 |
A. neumanni |
Argentina |
Guglielmone và cs., 1991 |
A. nuttalli |
Ivory Coast |
Aeschlimann, 1967 |
A. oblongoguttatum |
Central and South America |
Aragao and Fonseca, 1961 |
A. ovale |
Panama |
Obaldia, 1992 |
Surinam |
Keirans, 1984 |
|
A. parvum |
Argentina |
Guglielmone và cs., 1991 |
Brazil |
Fonseca, 1959 |
|
Panama and Guatemala |
Fairchild và cs., 1966 |
|
A. tholloni |
Uganda, Mozambique and Tanzania |
Matthysse and Colbo, 1987 |
Giống boophilus
Giống ve Boophilus spp. thường ký sinh bò ở các vùng ôn đới và nhiệt đới trên thế giới, nhưng rất hiếm khi ve này đốt người (Strickland và cs., 1976). Tuy nhiên, loài Boophilus microplus đã được ghi nhận là đốt người ở Cuba (de la Cruz và cs.,1991), Argentina (Guglielmone và cs., 1991), và Trung Quốc (Kuo-Fan, 1991). Loài ve này không truyền bệnh cho người.
Giống dermacentor
Dermacentor andersoni đã được ghi nhận ở khu vực Bắc Cực, phân bố từ Mỹ (Nebraska đến Nam Dakota và vùng núi Sierra Nevada) đến Canada (British Columbia, Alberta, Saskatchewan). Đây là véc tơ chính lan truyền Rickettsiarickettsii, tác nhân gây sốt phát ban Rocky Mountain (RMSF), ở các tiểu bang miền núi Rocky. Những bệnh lan truyền từ động vật sang người này liên quan đến việc lưu hành Rickettsia giữa ve và vật chủ là động vật có xương sống trong một hệ sinh thái độc lập với con người, ve vừa là véc tơ và là nơi chức các tác nhân gây bệnh (Schriefer và Azad, 1994). Khi ve bị nhiễm rickettsia trong cơ thể, rickettsia sẽ di chuyển đến buồn trứng, có thể 100% noãn bào bị nhiễm. Lan truyền Trans-ovarial có thể là một cơ chế quan trọng lan truyền R. Rickettsii ở ve trong tự nhiên hơn là ve bị nhiễm rickettsia từ việc đốt vật chủ bị nhiễm. (Burgdorfer và Brinton, 1975).
Dermacentor andersoni cũng có thể lan truyền các tác nhân gây sốt ve Colorado (CTF) (Yunker và Cory, 1967). CTF là một bệnh lan truyền từ động vật sang người gây ra bởi nhóm Orbivirus. Phân bố của bệnh trùng với phạm vi địa lý phân bố của loài ve này. Nhóm Orbivirus được duy trì trong tự nhiên, các ổ bệnh động vật nằm trong phạm vi địa lý phân bố của ve truyền bệnh và các ký chủ nhạy cảm, chủ yếu là các động vật có vú nhỏ (Sonenshine, 1993). Lan truyền vi rút gây CTF không theo cơ chế Trans-ovarial mà theo cơ chế Trans-stadial. Ấu trùng ve D. andersoni được gây nhiễm bằng cách cho đốt vật chủ mang vi rút, ấu trùng bị nhiễm vi rút và tiếp tục lan truyền đến giai đoạn thanh trùng và con trưởng thành. Tại các ổ dịch tỷ lệ ve và ký chủ nhiễm CTF cao, các ký chủ thường là chuột sóc, sóc đất và động vật có vú nhỏ khác (Sonenshine và cs., 1976). Mặc dù D. andersoni là một véc tơ thích hợp cho vi rút viêm não Powassan trong điều kiện thí nghiệm,nhưng tác nhân gây bệnh không tìm thấy ở ve được thu thập tại vùng dịch tễ (Nuttall và Labuda, 1994).
Dermacentor variabilis phân bố khắp nước Mỹ (ngoại trừ trong các vùng ở dãy núi Rocky), Canada và Mexico. Theo Felz và cs. (1996) báo cáo khoảng 11,4% loài này được thu thập được trên người ở Georgia và Nam Carolina. Campbell và Bowles (1994) ghi nhận khoảng 34% D. variabilis được tìm thấy trên người ở khắp Hoa Kỳ, ở những nơi có ca bệnh. Trong các báo cáo khác, D. variabilis chiếm 94% ở Bắc Carolina (Slaff và Newton, 1993), 90% ở Nam Carolina (và cs. Burgdorfer, 1975) và 34% ở Ontario (Scholten, 1977). D. variabilis là véc tơ chính của RMSF ở một số nơi thuộc miền Đông Hoa Kỳ, và cũng chính là véc tơ lan truyền Francisella tularensis (Hopla và Hopla, 1994). Một nghiên cứu về D. variabilis ở người cho thấy hầu hết (50%) loài ve này thường đốt ở đầu, trong khi ở chân-bàn chân và cánh tay-nách, lần lượt là 21,5% và 10,8% (Slaff và Newton, 1993) .
Dermacentor occidentalis phân bố dọc theo bờ biển Thái Bình Dương của Hoa Kỳ và vào sâu trong đất liền hàng trăm dặm từ Oregon tới mũi phía nam của California và đã được ghi nhận ở Mexico (Hoffmann, 1962). Khi ve đốt gây tê liệt ở gia súc, nhưng ở người thì không (Sonenshine, 1993), và loài này có thể lan truyền tác nhân gây bệnh Tularemia, RMSF, và CTF (Goddard, 1987). Hai loài ở gần Bắc Cực khác thuộc giống này đã được ghi nhận một vài trường hợp ký sinh ở người: D. parumapertus và D. albipictus (Doss và cs, 1977).
Loài thuộc giống Dermacentor ở Bắc cực và vùng phụ cận là những loài ký sinh phổ biến ở người. Dermacentor marginatus là một trong những loài chính ở Bắc Cực và vùng phụ cận ký sinh ở người. Tại Tây Ban Nha (A. Estrada-Pen˜ a, số liệu chưa được công bố) loài ve này chiếm khoảng 10% trên tổng số ve thu thập từ người. Nó là véc tơ của Rickettsia slovaca (Reha’cek và cs, 1990;.. Beati và cs, 1993) và đóng một vai trò là véc tơ phụ lan truyền vi rút sốt xuất huyết Omsk (OHF) (Nuttall và Labuda, 1994). Các chủng R. slovaca phân lập từ Đức, Hungary và Armenia được cho rằng đây là tác nhân phân bố rộng khắp, và mặc dù một vài ca lâm sàng đã được ghi nhận nhưng nhiều người có kháng thể chống lại rickettsia này (Reha’cek và Tarasevich, 1988). Một cuộc điều tra D. marginatus thu thập từ cừu ở Slovakia cho thấy tỷ lệ ve nhiễm R. slovaca chiếm 20%, không có thay đổi đáng kể nào về tỷ lệ nhiễm trong khoảng thời gian 20 năm (Reha’cek và cs., 1990). Sự hiện diện của vi rút CCHF đã được chứng minh ở ve D. marginatus được thu thập ở thực địa (Kondratenko, 1976).
Dermacentor nuttalli phân bố khắp miền Trung và miền Đông Siberia, Asiatic Russia (Nga Á), phía bắc Mông Cổ và Trung Quốc, thỉnh thoảng xuất hiện ở phía Tây nước Nga. Loài ve này được tìm thấy ở vùng đồng cỏ cao, nhưng nó không hiện diện tại các khu rừng rậm rạp, vùng đất thấp ven sông và vùng nhiều đồi núi cây cối rậm rạp. Nó là một trong những véc tơ (cùng với D. marginatus, D. silvarum và D. reticulatus) lan truyền Rickettsia sibirica, (Pchelkin và cs., 1989). Rickettsia do ve truyền này phổ biến ở vùng viễn đông Siberia và Trung Á, Armenia, Azerbaijan, Mông Cổ và Afghanistan (Reha’cek và Tarasevich, 1988). Thông thường, ấu trùng và thanh trùng đốt động vật có vú nhỏ, làm phát tán mầm bệnh, trong khi đó con người bị nhiễm khi bị đốt bởi ve trưởng thành mang tác nhân gây bệnh. Cả lan truyền Trans-stadial và Trans-ovarial xãy ra ở các loài ve này. Đây được xem là một trong bệnh nghề nghiệp của những người nông dân ở các nước Liên Xô củ, chủ yếu là những vùng nông nghiệp xung quan cánh đồng cỏ (Reha’cek và Tarasevich, 1988). D. nuttalli cũng là một véc tơ lan truyền tularemia ở Nga (Olsufiev, 1984).
Dermacentor silvarum phân bố chủ yếu ở miền đông nước Nga và phía bắc Mông Cổ và cũng được ghi nhận ở Romania và Nam Tư cũ. D. silvarum là véc tơ lan truyền Rickettsia sibirica (Yastrebov và Reshetnikova, 1990) ở Nga và Mông Cổ, và nó cũng là véc tơ lan truyền các vi rút viêm não do ve truyền (Tick Borne Encephalitis -TBE) (Muratkina và Leonova, 1992).
Dermacentor reticulatus, là véc tơ chính lan truyền sốt xuất huyết Omsk (OHF) (Lvov, 1988) thường được ghi nhận trên người ở Nga, Áo, Anh, Pháp và cũng đã được tìm thấy ở Tây Ban Nha (A. Estrada-Pen˜ a, quan sát chưa công bố, năm 1990). OHF gây ra bởi nhóm Flavivirus là một thành viên của TBE. Nó gây viêm não dẫn đến chết người, vi rút này tồn tại ở nhiều loài gặm nhấm hoang dã, và nguyên nhân gây rối loạn xuất huyết ở người. Ve D. reticulatus trưởng thành đốt động vật móng guốc hoang dã và con người, trong khi giai đoạn chưa trưởng thành chủ yếu đốt chuột đồng nước (Microtus gregalis) trong các sinh cảnh rừng-thảo nguyên. Số lượng ve bị nhiễm vi rút gia tằng cùng với sự gia tăng dân số chuột đồng (Hoogstraal, 1985). Con người có thể bị nhiễm khi đi săn hay bẫy chuột xạ (Ondatra zibethica) (Kharitonova và Leonov, 1985). D. reticulatus cũng có thể nhiễm Borrelia burgdorferi (Kahl và cs., 1992), nhưng không có báo cáo về khả năng lan truyền tác nhân gây bệnh này, tức là, nó không phải là véc tơ lan truyền B. burgdorferi. D. reticulatus là véc tơ lan truyền R. sibirica cũng như C. burnetii (Gosteva và cs, 1991;. Sonenshine, 1993).
Cuối cùng, hai loài thuộc giống được xem là ngoại ký sinh của người: D. auratus, phân bố ở Ấn Độ, Nepal, Thái Lan, Trung Quốc và Malaysia và D. circumguttatus, theo báo cáo của Matthysse và Colbo (1987) loài này đốt người ở Uganda. Những vùng rừng của dãy Himalaya ai cũng biết ấu trùng của ve Dermacentor auratus là mối phiền hà (Hoogstraal, 1970).
Bảng 4. Các loài ve Dermacentor có vai trò y học và phân bố địa lý
Loài |
Tác nhân gây bệnh |
Phân bố địa lý |
D. andersoni |
Rickettsia rickettsii |
Hoa Kỳ (Bang Rocky Mountain) |
Vi rút gây sốt ve Colorado |
Hoa Kỳ |
|
D. marginatus |
Vi rút gây sốt xuất huyết Omsk |
Bắc Cực và vùng phụ cận |
Rickettsia slovaca |
||
D. nuttalli |
Rickettsia sibirica |
Siberia, Nga, Mông Cổ, Trung Quốc |
D. occidentalis |
R. rickettsii |
Hoa Kỳ |
Vi rút gây sốt ve Colorado |
Hoa Kỳ |
|
D. silvarum |
R. sibirica |
Các vùng phí Đông Liên Xô củ, phía Bắc Mông cổ |
D. reticulatus |
Vi rút gây sốt xuất huyết Omsk |
Nông dân Liên Xô củ |
R. sibirica |
||
D. variabilis |
R. rickettsii |
Hoa Kỳ |
D. auratus |
– |
Một số nơi ở Himalaya |
Giống haemaphysalis
Một số lượng lớn các loài Haemaphysalis ký sinh ở người, tuy nhiên chỉ có một ít là véc tơ truyền bệnh quan trọng.
Haemaphysalis spinigera phân bố ở Ấn Độ và Sri Lanka, thanh trùng rất thích đốt người. H. spinigera là véc tơ chính lan truyền vi rút gây bệnh rừng Kyasanur (Kyasanur Forest Disease – KFD). Ổ bệnh KFD xuất phát từ người đàn ông trong rừng của bang Kyasanur và lan truyền ra các làng xung quanh, sau đó lan khắp trong bang Karnataka, Ấn Độ (Banerjee,1988). Khoảng 95% vi rút KFD được phân lập từ H. spinigera, các loài ve chiếm ưu thế ở mặt đất trong rừng tại các vùng dịch tễ. Ấu trùng đốt các động vật có vú nhỏ và các loài chim kiếm ăn ở mặt đất, trong khi thanh trùng thích đốt các loài động vật lớn hơn kể cả người và khỉ. Vi rút KFD được lan truyền theo cơ chế Tran-stadially, nhưng không lan truyền theo cơ chế Trans-ovarially. Vi rút này cũng hiện diện ở một số loài ve khác thuộc giống Haemaphysalis mà không ký sinh người, nhưng chúng ký sinh các động vật có vú nhỏ (chuột rừng, chuột chù và nhím). Chu kỳ lan truyền này giúp duy trì và lan truyền vi rút sang các vùng khác (Nuttall và Labuda, 1994). Hơn nữa, sinh cảnh rừng bị thay đổi bởi sự can thiệp của con người có thể đã góp phần vào sự lây lan dịch bệnh tại các dùng dịch tễ (Bhat, 1990). Khi người vào rừng để lấy củi hoặc những người làm việc tại bìa rừngcó nguy cơ bị nhiễm KFD cao.
Haemaphysalis concinna hầu như phân bố trong các khu rừng ở Trung Âu, Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam và Nhật Bản. Haemaphysalis punctata được tìm thấy trên người thì phân bố ở khắp châu Âu. Cả hai loài này là véc tơ lan truyền vi rút TBE, vi rút này đã được phân lập trên các mẫu ve thu thập ở thực địa (Gresikova’, 1972). H. punctata cũng liên quan đến việc lan truyền vi rút CCHF cho con người (Linthicum và Bailey, 1994).
Bảng 5. Các loài Haemaphysalis phổ biến gây bệnh cho người
Loài |
Tác nhân gây bệnh |
Phân bố địa lý |
H. concinna |
Vi rút gây viêm não do ve truyền |
Trung Âu, Liên Xô củ |
H. punctata |
Vi rút gây viêm não do ve truyền |
Châu Âu |
Vi rút gay số xuất huyết Crimean-Congo |
||
H. spinigera |
Vi rút gây bệnh rừng Kyasanur |
Ấn Độ, Sri Lanka |
Bảng 6. Các loài Haemaphysalis khác được ghi nhận đốt người ở một số nước
Loài |
Phân bố địa lý |
Tài liệu tham khảo |
H. aculeata |
Ấn Độ, Sri Lanka |
Keirans, 1984 |
H. anomala |
Nepal |
Hoogstraal, 1968 |
H. aponommoides |
Nepal, Ấn Độ |
Hoogstraal, 1968 |
H. bispinosa |
Nepal, Việt Nam, Malaysia |
Hoogstraal, 1968 |
H. darjeeling |
Thái Lan |
Keirans, 1984 |
H. flava |
Nhật Bản, Ấn Độ |
Hatsushika and Mimura, 1987 |
H. hystricis |
Thái Lan, Burma, Lào, Việt Nam |
Keirans, 1984 |
Trung Quốc |
Kuo Fan, 1991 |
|
H. japonica |
Trung Quốc |
Kuo Fan, 1991 |
H. koningsbergeri |
Thái Lan, Malaysia |
Keirans, 1984 |
H. leporispalustris |
Hoa Kỳ |
Harrison và cs., 1997 |
H. longicornis |
Nhật Bản, Úc, Trung Quốc |
Kuo Fan, 1991 |
H. mageshimaensis |
Trung Quốc |
Kuo Fan, 1991 |
H. montgomeryi |
Nepal |
Hoogstraal, 1968 |
Trung Quốc |
Kuo Fan, 1991 |
|
H. nepalensis |
Nepal |
Hoogstraal, 1968 |
Trung Quốc |
Kuo Fan, 1991 |
|
H. elongata |
Madagascar |
Uilenberg và cs., 1980 |
Giống hyalomma
Các loài ve thuộc giống Hyalomma được xem là véc tơ lan truyền vi rút và thích ký sinh người. Mặc dù nhiều loài không phải là véc tơ lan truyền bệnh, chính chiều dài ở phần phụ miệng của giống ve Hyalomma làm cho vết đốt đau đớn. Một trong những bệnh quan trọng nhất được truyền bởi giống ve Hyalomma là sốt xuất huyết Crimean-Congo (CCHF), trong đó loài Hyalomma marginatum là một trong những véc tơ chính.
Loài H. marginatum và phức hợp loài của chúng phân bố ở Đông Nam châu Âu, miền Nam nước Nga, Cận Đông và châu Phi (Goddard, 1987). Nó là véc tơ chính lan truyền vi rút CCHF ở rải rác khắp châu Âu, châu Á và châu Phi, từ Bồ Đào Nha hướng về phía đông Crimea, và sau đó tiếp tục từ phía Đông đến Trung Á và Trung Quốc (Hoogstraal, 1979). Dường như loài này không phân bố ở các nước châu Phi dọc theo bờ biển Địa Trung Hải nhưng nó phân bố khắp các quốc gia phía Nam của sa mạc Sahara. Loài ve này thích đốt các động vật có vú (nguồn chứa vi rút CCHF), vi rút này tồn tại ở ve mãi mãi theo cơ chế lan truyền Trans-stadial và Trans-ovarial (Linthicum và Bailey, 1994). Bệnh này thường phổ biến ở vùng khô hạn và bán khô hạn. Các vụ dịch nghiêm trọng đã xảy ra ở dọc các con sông và vùng đồng bằng gần sông, và trong rừng (Watts và cs., 1988). Ổ dịch ở động vật kéo dài thường liên quan đến các động vật có vú hoang dã, các loài chim kiếm ăn mặc đất và ve, mặc dù hầu hết các loài chim không có khả năng lan truyền vi rút vì chúng không đốt máu các động vật khác (Hoogstraal, 1979). Tuy nhiên, chim mang ve bị nhiễm CCHF và nó cũng là vật chủ cho nhiều loài ve khác (Watts và cs., 1988). Thỏ rừng (Lepus europaeus) và nhím (Erinaceus europaeus) thường xuyên bị nhiễm bệnh và là vật chủ quan trọng của Hyalomma marginatum. Gia súc cũng có thể quan trọng trong dịch tễ học của CCHF, mặc dù bằng chứng chủ yếu dựa vào huyết thanh học, với một vài vi rút được phân lập từ gia súc (Watts và cs., 1988). Các loài ve khác thuộc giống Hyalomma liên quan đến việc lan truyền vi rút CCHF bao gồm H. truncatum, H. detritum và H. impeltatum. Việc lan truyền vi rút theo cơ chế co-feeding cho các ve không bị nhiễm cũng đã được chứng minh (Gordon và cs., 1993).
Bảng 7. Các loài ve Hyalomma có vai trò y học và phân bố địa lý
Loài |
Tác nhân gây bệnh |
Phân bố địa lý |
Hyalomma. a. anatolicum |
Sốt xuất huyết Crimean-Congo |
Phía Nam châu Âu, Nga, Cận Đông |
Hyalomma marginatum |
Sốt xuất huyết Crimean-Congo |
Phía Nam châu Âu, Nga |
Hyalomma a. anatolicum, phân bố ở khắp các vùng Cận Đông (Tây Nam Á), Tiểu Á (Tiểu Á, hay Anatolia là một bán đảo của châu Á mà ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ, giáp với Biển Đen ở phía Bắc, Địa Trung Hải ở phía Nam, cách châu Âu bằng biển Aegea và biển Marmara ở phía Tây, và giáp với phần rộng lớn còn lại của châu Á ở phía Đông), Nam Âu, miền Nam nước Nga và Ấn Độ (Goddard, 1987), Hyalomma a. anatolicum là véc tơ lan truyền CCHF (Linthicum và Bailey, 1994). Các loài ve khác thuộc giống Hyalomma cũng có thể lan truyền vi rút CCHF. Có ghi nhận loài Hyalomma asiaticum ở vùng bán sa mạc của Nga, Trung Quốc, Afghanistan, Pakistan, Iran và Iraq ký sinh ở người (Kuo-Fan, 1991).
Giống ixodes
Ixodes ricinus phân bố khắp châu Âu, bao gồm cả các đảo nhỏ của nước Anh. Loài này cũng hiện diện thường xuyên ở phía Bắc châu Phi (Gray, 1991). Sự phát triển và hoạt động theo mùa của I. ricinus thay đổi tùy theo môi trường sống khác nhau, thường hoạt động nhiều vào mùa xuân, đầu mùa hè và vào cuối mùa hè và đầu mùa thu (Gray, 1991). I. ricinus là véc tơ chính lan truyền các vi rút thuộc phức hợp loài TBE ở châu Âu (Nuttall và Labuda, 1994). Bệnh xuất hiện ở khắp châu Âu và một số vùng ở phía Đông của nước Nga. Vi rút này được duy trì trong tự nhiên theo cơ chế Trans-stadial. Mặc dù vi rút này đã được phân lập từ các loài ve khác, nhưng có sự sự tương quan chặt chẽ giữa các ca bệnh với phân bố của I. ricinus (Sonenshine, 1993). Động vật gặm nhấm là vật chủ có xương sống chính cho các vi rút này đặc biệt Clethrionomys glareolus và Apodemus flavicollis, cũng như động vật ăn côn trùng khác (Nuttall và Labuda, 1994). Một số loài động vật ăn thịt hoang dã và những loài vật nuôi nhai lại cũng dễ nhạy cảm với vi rút này và cũng góp phần cho sự lây lan vi rút sang người. Mặc dù vi rút TBE đã được phát hiện trong phân của I. ricinus (Benda năm 1958), nhưng không có bằng chứng cho thấy lan truyền xảy ra khi tiếp xúc với phân của ve.
Ixodes ricinus là véc tơ quan trọng lan truyền xoắn khuẩn gây bệnh Lyme châu Âu, bao gồm các xoắn khuẩn B. afzelii, B. garinii, B. burgdorferi Senso stricto, B.lusitaniae, B. valaisiana và có thể những loài xoắn khuẩn khác (Postic và cs, 1994;. Le Fleche và cs, 1997;.. Wang và cs, 1997). Tầm quan trọng của I. ricinus trong việc lan truyền bệnh Lyme ở châu Âu chính là sự phân bố rộng khắp của loài ve này, tập tính kiếm ăn và sẵn sàng đốt người (Piesman và Gray, 1994).
I.ricinus có thể vừa là một véc tơ quan trọng và là một vật chủ duy trì sự tồn tại của vi rút CCHF (Watts và cs., 1988) và cũng là véc tơ của đơn bào Babesia divergens(tác nhân gây bệnh babesiosis ở người tại châu Âu), bệnh xuất hiện lẻ tẻ nhưng thường gây tử vong (Gray , 1991). Một trường hợp tử vong do nhiễm B. divergensđã được chẩn đoán trên một người đàn ông bị cắt lách ở Algarve, Bồ Đào Nha (V. doRosario và A.J. Maia, sáng Freudenthal và F. Jongejan, chưa xuất bản, 1998).
Ixodes persulcatus, thường đốt người, được tìm thấy ở Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc và Trung Quốc (Im và cs., 1998). Loài này đã di chuyển từ phía tây nước Nga vào châu Âu, và có thể chính các loài chim di cư đã mang I. persulcatus đến các khu vực khác nhau (R. Mehl, pers. Comm.). I. persulcatus sống ở những khu rừng lá nhỏ. Nó là véc tơ lan truyền vi rút OHF (Hoogstraal, 1965), Borrelia afzelii, B. garinii, và B. burgdorferi (Korenberg và cs., 1987). Ổ bệnh vi rút TBE (Chủng viễn Đông) được tìm thấy trong vùng phân bố địa lý của I. persulcatus, chủ yếu ở rừng taiga (rừng lá rộng với độ ẩm cao). ổ bệnh xảy ra rải rác ở các thung lũng được bao phủ bởi đồng cỏ đầm lầy, và ở đồng bằng nhấp nhô nơi môi trường sống thích hợp cho cây bụi (Nuttall và Labuda, 1994). Ổ bệnh của chủng vi rút TBE ở vùng Viễn Đông được duy trì bởi I. persulcatus, Ve bị nhiễm vi rút chiếm một tỷ lệ tương đối cao, và trong các khu vực như vậy, thời gian hoạt động của ve tương đối ngắn, khoảng từ tháng tư đến tháng sáu. Cả hai loài ve I. ricinus and I. persulcatus có phải là véc tơ lan truyền hai chủng vi rút TBE hay không vẫn chưa được xác định ở một số nơi của châu Âu, nơi mà có hai loài ve này sống chung.
Ixodes hexagonus là ký sinh trùng thường ký sinh người phổ biến ở Đức và Vương quốc Anh (Liebisch và Walter, 1986). Loài này là véc tơ lan truyền B. Burgdorferi trong điều kiện phòng thí nghiệm (Toutoungi và Gern, 1993) và đã tìm thấy được trường hợp ve bị nhiễm vi khuẩn này trong điều kiện tự nhiên. I. hexagonus có khả năng lan truyền vi rút TBE đã được chứng minh mặc dù vai trò về dịch tễ học của bệnh còn chưa rõ ràng (van Tongeren, 1962).
Ixodes uriae là loài ve ở gần Bắc cực và Nam cực ký sinh trên các loài chim biển, khả năng lan truyền B. burgdorferi từ động vật sang người đã được chứng minh (Olsen và cs., 1993). Một nhà nghiên cứu về chim đang nghiên cứu về các bầy chim biển đã bị I. Uriae đốt và sau đó phát ban đỏ (R. Mehl, pers. Comm.).
Ixodes ovatus ký sinh người ở Tây Tạng, Miến Điện, Nepal, Nhật Bản và Trung Quốc (Keirans, 1984; Kuo-Fan, 1991). Borrelia japonica đã được phân lập từ I. ovatus ở Nhật Bản (Postic và cs., 1994).
Ixodes holocyclus đốt người gây liệt ở Úc. Loài này xuất hiện chủ yếu ở New Guinea và dọc theo bờ biển phía Đông của Úc, chúng thường hoạt động vào những tháng nóng trong năm. Các giống chuột lớn là vật chủ chính của I. holocyclus (Bagnall và Doube, 1975). Đặc trưng lâm sàng của ca bệnh khi bị loài ve này đốt là bị bại liệt đến 48 h, với một vài triệu chứng nghiêm trọng xảy ra sau khi gắp ve ra; phải mất vài tuần sau mới phục hồi lại (Stone và cs., 1989). Ngược lại sau giai đoạn tê liệt, bệnh tiến triển nhanh chóng và có thể gây tử vong trong vòng vài ngày sau khi khởi phát triệu chứng. I. holocyclus là véc tơ lan truyền Rickettsia australis (Sexton và cs., 1991), và giai đoạn ve từ ấu trùng đến thanh trùng có thể lan truyền chủng B. burgdorferi gần Bắc cực (Piesman và Stone, 1991).
Ixodes scapularis (trước đây là Ixodes dammini, theo Oliver và cs., 1993) phân bố dọc theo bờ biển Đại Tây Dương của Canada và Hoa Kỳ, và trên khắp các bang phía Nam, bao gồm Texas và Oklahoma. Có thể phạm vi phân bố của nó được mở rộng đến các bang phía Tây (Keirans và cs., 1996).
Loài ve I. scapularis cần điều kiện khí hậu ẩm ướt để tồn tại; thường sinh sống ở lớp lá mục nát dưới tán cây cao của các khu rừng rụng lá. Loài này chiếm 76,2% số ve được thu thập ở người tại miền Nam New York (Falco và Cá, 1988) nhưng chỉ khoảng 3,9% ở Georgia và Nam Carolina (Felz và cs., 1996). I. scapularis là véc tơ chính lan truyền B. burgdorferi, tác nhân gây bệnh Lyme cho người ở miền Đông Hoa Kỳ và Canada, chuột chân trắng (Peromyscus leucopus) và ve I. scapularis chưa trưởng thành là vật chủ chính chứa B. burgdorferi. Ở những nơi không có chuột chân trắng thì có các loài gặm nhấm khác thay thế làm vật chủ chứa tác nhân gây bệnh này, ví dụ, chuột Na Uy (Rattus norvegicus) (Piesman và Gray, 1991).
Mặc dù Rickettsia gây sốt phát ban Rocky Mountain (RMSF) đã được phân lập từ loài ve I. scapularis (Burgdorfer,1975) nhưng vai trò về mối liên hệ giữa loài ve này với bệnh sốt phát ban Rocky Mountain chưa được hiểu rõ. I. scapularis cũng có thể lan truyền Babesia microti, các đơn bào gây bệnh babesiosis cho người ở gần Bắc cực (Ristic và Lewis, 1977; Spielman, 1988).
Bệnh Ehrlichiosis granulocytic ở người (HGE) do Ehrlichia phagocytophila gây ra, chủ yếu xuất hiện tại các bang miền Tây và Đông Bắc Hoa Kỳ, phía Bắc California (Walker và Dumler, 1996; Dumler và Bakken, 1998). Pancholi và cộng sự (1995) lần đầu công bố loài I. scapularis là véc tơ lan truyền HGE bởi cả ve và người đều bị nhiễm tác nhân gây bệnh. Madigan và cộng sự (1996) khẳng định rằng các trình tự DNA của gen 16S rRNA của tác gây bệnh ở ngựa và người giống hệt nhau.
Ixodes pacificus phân bố dọc theo bờ biển Thái Bình Dương của British Columbia, Canada và Hoa Kỳ, mở rộng vào California và một số nơi của Mexico. Các điều kiện sinh thái ở miền tây Bắc Mỹ thuận lợi cho I. pacificus tồn tại và phát triển. (Olse và cs., 1992). I. pacificus có thể là véc tơ lan truyền đơn bào giống như Babesia ở California và Washington, mặc dù hầu như chưa chứng minh được khả năng lan truyền tác nhân gây bệnh của loài ve này ở các giai đoạn khác nhau cũng như vấn đề dịch tễ học của bệnh. I. pacificus là một véc tơ lan truyền B. Burgdorferi tương đối yếu, có lẽ vì ấu trùng và nhộng của loài ve này chủ yếu đốt máu các loài thằn lằn mà không phải là vật chủ chứa tác nhân gây bệnh thích hợp (Lane và Loye, 1989). Véc tơ phụ ở bờ biển Thái Bình Dương là loài I. neotomae, một loài không đốt người, loài này duy trì tác nhân gây bệnh qua lại giữa động vật gặm nhấm và thỏ (Brown và Lane, 1992). Trong trường hợp này, cả hai loài đóng góp vào việc duy trì B. burgdorferi (tác nhân gây bệnh cho người) giữa các động vật hoang dã trong tự nhiên, với I. pacificus là véc tơ lan truyền xoắn khuẩn cho người.
Ixodes cookei phân bố trên khắp các bang phía Đông và giữa miền Tây của Hoa Kỳ và Canada (Farkas và Surgeone, 1990), tại khu vực này I. Cookei là véc tơ chính của vi rút gây viêm não Powassan (PE) (Nuttall và Labuda, 1994). I. cookei chờ đợi cơ hội và sẵn sàng đốt chó, người và động vật có vú hoang dã khác nhau. Chuột chũi (Marmota monax) là một trong những vật chủ phổ biến nhất của vi rút PE (Artsob và cs., 1984). Sốt phát ban Rickettsia sốt cũng đã được tìm thấy trong I. cookei (Burgdorfer, 1988) nhưng ít được biết về vai trò lan truyền bệnh Rickettsia của loài ve này. Bệnh Lyme borreliosis cũng có thể lây nhiễm cho I. cookei (Levine và cs., 1991), nhưng nó không được xem là véc tơ có khả năng lan truyền bệnh này (Magnarelli và Swihart, 1991).
Loài Ixodes dentatus trưởng thành ký sinh chủ yêu ở thỏ, nhưng giai đoạn ve chưa trưởng thành ký sinh ở các loài chim và hiếm khi ký sinh trên người. Trong tự nhiên, Borrelia spp. đã được phân lập từ ấu trùng I. dentatus (Anderson và cs., 1990), và thực nghiệm, ấu trùng I. dentatus có thể mang xoắn khuẩn từ vật chủ bị nhiễm và lan truyền sang giai đoạn thanh trùng (Telford và Spielman, 1989). Trong mùa thu, một số lượng lớn I. dentatus được phát tán bởi các loài chim di cư, tạo ra cơ hội lan truyền nhanh chóng vi khuẩn B. burgdorferi (Clifford và cs, 1970;.. Levine và cs, 1991).
Bảng 8. Các loài ve Ixodes có vai trò y học và phân bố địa lý
Loài |
Tác nhân gây bệnh |
Phân bố địa lý |
I. holocyclus |
Rickettsia australis |
Úc |
I. ovatus |
Borrelia japonica |
Nhật Bản |
I. pacificus |
B. burgdorferi |
Miền Tây Hoa Kỳ, Canada |
I. persulcatus |
Vi rút gây sốt xuất huyết Omsk |
Nhật Bản, Nông dân Liên Xô củ |
B. afzelii |
||
B. garinii |
||
B. burgdorferi |
||
Vi rút TBE |
||
I. ricinus |
B. afzelii |
Châu Âu, nông dân miền Tây Liên Xô củ, Bắc Phi |
B. garinii |
||
B. lusitaniae |
||
B. valaisiana |
||
B. burgdorferi s.s. |
||
Nhóm Ehrlichia phagocytophila |
||
Vi rút TBE |
||
Babesia divergens |
||
Rickettsia helvetica |
||
I. scapularis |
B. burgdorferi s.s. |
Hoa Kỳ (dọc bờ biển Đại Tây Dương), Đông Nam Canada |
Babesia microti |
||
Nhóm Ehrlichia phagocytophila |
Bảng 9. Các loài Ixodes khác được ghi nhận đốt người ở các nước
Loài |
Phân bố địa lý |
Tài liệu tham khảo |
I. angustus |
Hoa Kỳ |
Keirans and Clifford, 1978 |
I. cavipalpus |
Angola |
Keirans, 1984 |
Zambia |
F. Jongejan (unpublished) |
|
I. nipponensis |
Hàn Quốc |
Ruy và cs., 1998 |
I. turdus |
Nhật Bản |
Woo và cs., 1990 |
Giống rhipicephalus
Rhipicephalus sanguineus là loài ve có phân bố địa lý rộng khắp trên thế giới. Theo Goddard (1989) có 15 trường hợp loài ve này đốt người trong 756 R. sanguineus được thu thập từ các kho quân sự của Không quân Hoa Kỳ. Trong một báo cáo khác về ve ký sinh trên người được thu thập từ các nhân viên của Không quân Mỹ, R. sanguineus chiếm 7% tổng số ve thu được (Campbell và Bowles, 1994). Felz và cộng sự (1996) cho rằng R. sanguineus chiếm 0,7% tổng số ve thu thập được trên người tại Georgia và Nam Carolina. Tuy nhiên, theo báo cáo của Harrison và cộng sự (1997) R. sanguineus chưa trưởng thành ký sinh ở người chiếm một tỷ lệ cao tại Bắc Carolina. R. sanguineus có thể lan truyền vi rút CCHF (Srivastava và Varma, 1964), và là véc tơ chính lan truyền Rickettsia conorii, tác nhân gây sốt Boutonneuse, ở các nước xung quanh vùng biển Địa Trung Hải. R. conorii lưu hành trong môi trường tự nhiên giữa ve và các động vật có vú kích thước trung bình và nhỏ. Giai đoạn chưa trưởng thành R. sanguineus ký sinh trên các loài gặm nhấm, nhím và các động vật có vú nhỏ khác, trong khi con trưởng thành ký sinh động vật lớn hơn, bao gồm chó, động vật ăn thịt hoang dã, động vật móng guốc và con người. Chó có thể vật chủ chứa rickettsia (Arthur, 1962). Các loài Rickettsia khác được phân lập từ R. sanguineus, bao gồm Rickettsia massiliae ở Pháp và Bồ Đào Nha, ban đầu loài này được phân lập và mô tả từ Rhipicephalus turanicus (Beati và Raoult, 1993), và một chủng Rickettsia tương tự đã được phân lập ở Hy Lạp (Babalis và cs., 1994). Vai trò ký sinh ở người của R. turanicus vẫn chưa rõ ràng (Pegram và cs., 1989), nhưng Rickettsia massiliae và rickettsia gây sốt phát ban (Mtu5) đã được tìm thấy trên loài ve này theo báo cáo của Beati và cs. (1992).
Bảng 10. Các loài ve Rhipicephalus đốt người được ghi nhận ở các nước
Loài |
Phân bố địa lý |
Tài liệu tham khảo |
R. longus |
Uganda, Tanzania |
Matthysse và Colbo, 1987 |
R. muhsamae |
Nigeria |
Keirans, 1984 |
R. praetextatus |
Uganda |
Matthysee và Colbo, 1987 |
R. pulchellus |
Kenya, Tanzania |
Keirans, 1984 |
R. rhipicephali |
Châu Phi |
Linthicum và Bailey, 1994 |
R. senegalensis |
Sierra Leone |
Keirans, 1984 |
R. haemaphysaloides |
Nepal, Đài Loan, Miến Điện, Sri Lanka |
Keirans, 1984 |
Trung Quốc |
Kuo-Fan, 1991 |
Rhipicephalus bursa ký sinh chủ yếu trên các động vật nuôi là móng guốc và móng guốc hoang dã, nhưng đã có ghi nhận loài ve này đốt người ở Trung Quốc, Nam Tư, Bulgaria và Italy. Người ta đã phân lập được vi rút CCHF trên Rhipicephalus bursa trong điều kiện tự nhiên (Linthicum và Bailey, 1994). Các loài Rhipicephalus khác đôi khi cũng thu thập được trên người.
Nhận xét
Các bệnh do ve truyền sang người là một mối quan tâm chính của vấn đề sức khỏe cộng đồng. Đáng chú ý, các bệnh do vi rút như viêm não và sốt xuất huyết, có tỷ lệ mắc và tử vong cao nhất. bệnh Lyme có thể dẫn đến tình trạng suy nhược nếu diễn tiến bệnh đến giai đoạn viêm khớp và thần kinh, bệnh có thể hết nếu được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời. Các bệnh rickettsia do ve truyền (Sốt phát ban Rocky Mountain, sốt boutonneuse, sốt xuất huyết Omsk và các bệnh khác) có thể dẫn đến tình trạng nghiêm trọng nếu không được điều trị kịp thời. Bệnh ehrlichial, có thể nhiễm kết hợp với đơn bào khác (Babesia spp.).
Ve đốt người cũng có thể gây ra một phản ứng dị ứng nghiêm trọng, ngay lập tức IgE đặc hiệu xuất hiện để trung hòa chất gây dị ứng (Gauci và cs., 1989). Những phản ứng nghiêm trọng do độc tố của A. brumpti và O. moubata đã được ghi nhận. O. coriaceus, là một trong những loài gây ra nỗi sợ hải vì độc tố của loài này đã được ghi nhận ở miền Tây Hoa Kỳ và Mexico. Trong vùng Vịnh Ba Tư, khách du lịch đến tham quan nơi sinh sản của các loài chim biển đã bị O. muesebecki đốt gây ngứa dữ dội và sau đó là viêm (Hoogstraal, 1982).