ĐỊNH LƯỢNG ProGRP (Pro-Gastrin-Releasing-Peptide)
NGUYÊN LÝ
GRP (Gastrin-Releasing-Peptide)được sản xuất thường xuyên bởi tế bào ung thư biểu mô phổi tế bào nhỏ (SCLC). Nhưng do GRP rất dễ bị phân hủy, nên xét nghiệm định lượng ProGRP (31-98) trong huyết thanh (ProGRP (31-98) một vùng có tận cùng là carboxyl chung cho 3 loại ProGRP biến thể ở người) là dấu ấn (marker) đáng tin cậy ở người bệnh SCLC.
Xét nghiệm ProGRP là xét nghiệm miễn dịch hai bước sử dụng phép phân tích Miễn dịch Vi hạt hóa phát quang CMI (Chemiluminescent Microparticle.
ImmunoAssay) với quy trình xét nghiệm linh hoạt để định lượng ProGRP (31-98) trong huyết tương người. Ở bước một: mẫu, dung dịch pha loãng, và kháng ProGRP phủ trên vi hạt thuận từ được kết hợp lại. ProGRP có trong mẫu gắn với các vi hạt phủ kháng ProGRP. Sau khi rửa, chất kết hợp kháng ProGRP có đánh dấu acridinium được cho vào ở bước hai để tạo hỗn hợp phản ứng. Tiếp theo sau là một quá trình rửa khác, cho dung dịch Pre-Trigger và Trigger vào hỗn hợp phản ứng. Kết quả của phản ứng hóa phát quang được tính bằng đơn vị ánh sáng (RLUs). Sự tương quan trực tiếp giữa lượng ProGRP trong mẫu và RLUs sẽ được bộ phận quang học trong máy ARCHITECT phát hiện.
CHUẨN BỊ
Người thực hiện
Bác sĩ và Cử nhân xét nghiệm đã được đào tạo vận hành máy Architect.
Phương tiện, hóa chất
Phương tiện
Máy Architect ir1000, ir 2000.
Ống nghiệm (EDT, sodium heparin, lithium heparin) dây garô, bơm tiêm 5mL.
Hóa chất
Bộ Thuốc Thử, 100 Test RCHITECT ProGRP.
CÁC VI HẠT: 1 chai (6,6 mL) nti-ProGRP (chuột, kháng thể đơn dòng) phủ trên vi hạt trong dung dịch đệm TRIS với chất ổn định protein (bò). Nồng độ tối thiểu: 0,04% rắn.
CHẤT KẾT HỢP: 1 chai (5,9 mL) Anti-ProGRP có đánh dấu acridinium (chuột, kháng thể đơn dòng) phủ trên vi hạt trong dung dịch đệm TRIS với chất ổn định protein (bò). Nồng độ tối thiểu: 106 ng/mL.
DUNG DỊCH HÒ LOÃNG: 1 chai (2,9 mL). Pha loãng xét nghiệm ProGRP chứa dung dịch đệm TRIS.
Người bệnh
Là những người bệnh nghi ngờ ung thư phổi, ung thư hạch (carcinoids), ung thư tuyến giáp thể tủy, hay các ung thư ác tính thần kinh nội tiết khác.
Phiếu xét nghiệm
Thống nhất theo mẫu quy định của bệnh viện.
CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH
Lấy bệnh phẩm
Khuyến cáo nên sử dụng mẫu huyết tương cho xét nghiệm RCHITECT ProGRP.
Huyết tương: Dùng ống EDT, sodium heparin, lithium heparin.
Các chất chống đông có thể có hiệu ứng pha loãng làm nồng độ mẫu người bệnh thấp.
Điều kiện mẫu: Không được sử dụng các mẫu sau:
Bị bất hoạt do nhiệt, hỗn hợp, bị tán huyết (> 500 mg/dL), có thể thấy nhiễm khuẩn, mẫu lấy từ tử thi hay các dịch cơ thể khác.
Để có kết quả xác thực: mẫu huyết tương không có hồng cầu hay các vật thể lạ khác.
Thận trọng khi xử lý các mẫu xét nghiệm của người bệnh để ngăn ngừa nhiễm chéo. Để có kết quả tối ưu, cần kiểm tra bọt khí trong mẫu bằng mắt. Loại bỏ bọt khí bằng que dùng riêng cho phân tích trước khi xét nghiệm. Mỗi xét nghiệm dùng một que riêng để tránh nhiễm chéo.
Mẫu nên được xét nghiệm ngay sau đó để tránh ProGRP bị biến chất trong mẫu. Mẫu ổn định trong 8 giờ ở nhiệt độ từ 15-30°C, 24giờ ở 2-8°C. Nếu thực hiện xét nghiệm trễ hơn thời gian quy định, cần tách cục máu đông, hồng cầu hay gel phân tách ra huyết tương và bảo quản đông lạnh (≤ -15°C) trong 7 ngày, bảo quản ở ≤ 70°C (trong 12 tháng), xét nghiệm cho nồng độ ổn định.
Tiến hành kỹ thuật
Lắc đảo ngược chai vi hạt 30 lần để phân tán các vi hạt có thể bị lắng trong quá trình vận chuyển. Nạp Bộ thuốc thử RCHITECT ProGRP vào hệ thống RCHITECT ir1000 hoặc ir 2000.
Kiểm tra để chắc rằng có đủ tất cả thuốc thử cần thiết cho xét nghiệm.
Đảm bảo rằng các chai thuốc thử đã mở nắp đều có màng ngăn đậy lại.
Tiến hành hiệu chuẩn nếu cần.
Xử lý mẫu huyết tương: Mẫu huyết tương không yêu cầu nạp ưu tiên, và không được để trên máy > 3 giờ.
Chuẩn bị mẫu chuẩn và mẫu kiểm tra chất lượng.
Kiểm tra mẫu chuẩn (Calibrator) và mẫu kiểm tra chất lượng (Control) không đông lạnh trước khi sử dụng. Lắc trộn chai đựng mẫu chuẩn và mẫu kiểm tra chất lượng ProGRP RCHITECT nhẹ nhàng trước khi sử dụng.
Yêu cầu chai đựng mẫu chuẩn và mẫu kiểm tra chất lượng RCHITECT ProGRP phải giữ theo chiều thẳng đứng và nhỏ 7 giọt mẫu chuẩn hay 4 giọt của mỗi mẫu kiểm tra chất lượng vào từng cốc đựng mẫu tương ứng. Sau đó nạp mẫu và nhấn nút RUN.
Quy trình pha loãng mẫu
Mẫu với nồng độ ProGRP > 5000 pg/mL sẽ được đánh dấu (flag).
“> 5000” và có thể pha loãng. Máy sẽ thực hiện pha loãng theo tỉ lệ 1:10 cho mẫu theo lệnh của người thực hiện, tự động tính toán nồng độ của mẫu và báo cáo kết quả. Quy trình pha loãng thủ công: Tỷ lệ pha loãng không nên vượt quá 1:10.
NHẬN ĐỊNH KẾT QUẢ
Xét nghiệm ProGRP được dùng kết hợp với các phương pháp lâm sàng khác để hỗ trợ chẩn đoán phân biệt ung thư phổi, theo dõi và điều trị người bệnh bị ung thư phổi tế bào nhỏ.
Bình thường
Nồng độ ProGRP huyết tương là
Giới hạn đo của máy
Nồng độ ProGRP từ 3 – 5000 pg/mL.
Nồng độ của ProGRP cao trong ung thư phổi tế bào nhỏ, ung thư hạch (carcinoids), ung thư phổi tế bào lớn chưa biệt hóa với thần kinh nội tiết, ung thư tuyến giáp thể tủy, hay các ung thư ác tính thần kinh nội tiết khác (neuroendocrine malignancies).
ProGRP hữu ích trong chẩn đoán phân biệt khối u phổi như ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi không phải tế bào nhỏ. ProGRP là chỉ điểm có độ nhạy cao nhất cho ung thư biểu mô phổi tế bào nhỏ (SCLC) so sánh với các bệnh lành tính của phổi. Định lượng nồng độ ProGRP là rất tốt cho việc theo dõi đáp ứng điều trị và phát hiện sự tái phát bệnh ung thư phổi.
NHỮNG SAI SÓT VÀ XỬ TRÍ
Những mẫu máu sau đây có thể cho ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm.
Với mẫu huyết thanh, nồng độ ProGRP có thể bị biến chất do enzym phân giải protein nội sinh (endogenous proteases) được tạo ra trong quá trình đông máu. ProGRP bền vững trong mẫu huyết tương hơn là huyết thanh, do đó không sử dụng mẫu huyết thanh để đo ProGRP.
Mẫu có fibrin, hồng cầu hay các vật thể lạ khác hay mẫu đã được bảo quản đông lạnh và rã đông cần phải chuyển qua ống ly tâm và ly tâm ít nhất ở ≥ 10000
RCF (Relative Centrifugal Force) trong 10 phút trước khi xét nghiệm. Sau đó hút phần dịch trong sang cúp đựng mẫu để chạy xét nghiệm.
Các mẫu xét nghiệm đã ly tâm có màng lipid ở trên cùng phải được hút vào cup chứa mẫu. Cần phải cẩn thận chỉ chuyển phần dịch trong không được lẫn lipid.