Giun kim Enterobius vermicularis là một loại giun hình ống, miệng có 3 môi nhỏ, không có bao miệng, ở phần sau thực quản có ụ phình. Vỏ cứng phát triển thành 2 nếp gờ chạy suốt thân.
Giun kim phân bố rộng rãi trên khắp thế giới, cả các nước phát triển và các nước đang phát triển, cả ở xứ lạnh và xứ nóng.
Đặc điểm hình thể.
Giun trưởng thành:
Hình ống, nhỏ, màu trắng đục, đầu hơi phình, có 2 mép hình lăng trụ chạy dọc 2 bên thân như 2 nếp gờ.
Đuôi thon, nhọn. Miệng có 3 môi nhỏ. Phần cuối thực quản có ụ phình. Đây là đặc điểm quan trọng để nhận biết giun kim. Tiếp theo thực quản là ruột chạy xuống phía đuôi, hậu môn đổ gần ra gần cuối đuôi. Kích thước giun cái: 8 – 13 x 0,3 – 0,5 mm, giun đực bé hơn: 2 – 5 x 0,1 – 0,2 mm, đuôi cong cuộn lên phía bụng, cuối đuôi có gai sinh dục.
Hỡnh 10.8: Hình thể giun kim E.vermicularis
Bộ máy sinh dục gồm: hai tinh hoàn hình ống, ống dẫn tinh. Bộ máy sinh dục cái gồm: hai buồng trứng nhỏ, hai ống dẫn trứng, hai tử cung chứa đầy trứng choán đầy xoang thân của giun, xếp thành hai hàng: trước và sau thân. Lỗ sinh dục cái ở 1/3 trước thân.
Trứng giun kim:
Trứng hình bầu dục, một mặt phồng, bị lép một góc như đầu bánh mì, một mặt lép. Kích thước trứng 50 – 60 x 30 µm. Vỏ mỏng, không màu, không bắt màu vàng của sắc tố mật có trong phân. Trứng phát triển nhanh nên thường thấy ấu trùng ở bên trong, hoặc ở giai đoạn phôi hình quả dâu.
Hình 10.9: Hình thể trứng giun kim E. vermicularis.
Đặc điểm sinh học.
Người là vật chủ duy nhất của giun kim. Giun trưởng thành sống kí sinh chủ yếu ở manh tràng, đại tràng. Đầu bám vào màng nhầy ruột. Giun hấp thụ những chất chứa trong ruột. Sau khi giao phối, giun đực chết và bị tống ra ngoài theo phân. Giun cái với tử cung đầy trứng, di chuyển về phía trực tràng, tới hậu môn, rồi ra vùng quanh hậu môn, đẻ trứng ở các nếp nhăn hậu môn. Thường đẻ trứng vào buổi tối. Một giun cái mỗi tối đẻ 5.000 -17.000 trứng, trong khoảng thời gian từ 15 – 45 phút. Sau khi đẻ giun cái teo lại và chết. Trứng sinh ra có phôi ngay, sau vài giờ có thể truyền bệnh. Thường không thấy trứng giun kim trong phân, hoặc chỉ thấy ở đầu bãi phân. Người nuốt phải trứng thường qua tay bẩn hoặc đồ vật đưa lên miệng. Trứng qua miệng xuống ruột nở ra ấu trùng, ấu trùng xuống manh tràng, đại tràng, phát triển thành giun trưởng thành.
Hình 10.10: Vòng đời sinh học của giun kim E. vermicularis.
Đời sống giun kim ngắn không quá 3 – 4 tuần. Vòng đời giun kim rất đơn giản chỉ có một vật chủ, trứng đẻ ra chỉ sau vài giờ đã có ấu trùng bên trong có thể gây nhiễm, do đó giun kim phát triển rất nhanh. Giun kim còn có thể gây nhiễm theo hình thức khác: trứng ở hậu môn nở thành ấu trùng trực tiếp chui vào hậu môn đi ngược theo khung đại tràng, phát triển thành giun trưởng thành. đời phát triển theo kiểu này làm cho bệnh nhân bị tái nhiễm nhanh và kéo dài (Sclucffner, 1949). Một số tác giả cho rằng: giun kim còn có thể tăng sinh ngay trong cơ thể người bệnh. Nhưng các kiểu phát triển vòng đời này ít gặp.
Vai trò y học.
Ngứa hậu môn:
Triệu chứng thường gặp nhất là ngứa hậu môn, ngứa thường xuất hiện vào buổi tối, vào giờ đi ngủ, vì giun cái đẻ trứng vào thời gian này. Khi đó nhiệt độ giường ấm áp kích thích giun cái đẻ trứng.
Rối loạn tiêu hoá:
Giun kim có thể gây ngứa ruột mạn tính, gây rối loạn tiêu hóa. Giun kim có thể chui lên ruột non, chui vào thành ruột, thường gặp ở chỗ tiếp giáp với manh tràng. Trường hợp cá biệt giun kim có thể chui vào ruột thừa gây viêm ruột thừa. Những tổn thương ở ruột có thể gây nên tình trạng chán ăn, trẻ em đôi khi buồn nôn, đau bụng.
Rối loạn thần kinh:
Giun đẻ ở hậu môn gây ngứa làm trẻ em mất ngủ, quấy khóc về đêm. Trẻ em có nhiều giun có cơn co giật kiểu động kinh, chậm lớn, xanh xao, gầy còm.
Giun kim còn có thể gây tác hại ở cơ quan sinh dục nữ.
Do giun kim thường ra các nếp nhăn ở vùng hậu môn đẻ trứng. Có thể bò sang bộ phận sinh dục nữ (âm hộ, âm đạo) làm các trẻ gái và phụ nữ bị ngứa, gãi, xước viêm tấy, nhiễm trùng. Dẫn đến viêm âm đạo, âm hộ, rối loạn kinh nguyệt… Cá biệt giun kim có thể chui vào tử cung, buồng trứng gây viêm nhiễm ở đó.
Nhiễm giun kim lâu trong cơ thể có thể ảnh hưởng tới khả năng phát triển cơ thể của trẻ:
Trẻ gầy xanh, biếng ăn, bụng to, chậm lớn, suy dinh dưỡng…
Chẩn đoán.
Lâm sàng:
Dấu hiệu ngứa ngáy, ngọ nguậy, buồn ở hậu môn về đêm rất đặc hiệu. Nếu khám ngay, có thể thấy giun cái trưởng thành ở các nếp nhăn hậu môn. Các triệu chứng khác nói chung không đặc hiệu.
Xét nghiệm kí sinh trùng:
Xét nghiệm phân tìm trứng giun ít thấy, hoặc nếu có chỉ thấy ở đầu bãi.
Phương pháp giấy bóng kính dính: người ta dùng một miếng giấy bóng kính có phết cồn dán (gomme arabic), áp dính vào hậu môn rồi dán lên phiến kính để soi (Hoàng Nguyên Dực, 1958). Hiện nay dùng băng dính trong để thay thế giấy bóng kính.
Phương pháp Scriabin: dùng tăn bông tẩm nước muối sinh lí quệt các nếp nhăn hậu môn, rồi rửa nước muối sinh lí, li tâm nước rửa lấy cặn làm tiêu bản, soi trên kính hiển vi.
Tìm trứng giun trưởng thành ở hậu môn (thường vào buổi tối 22 giờ).
Điều trị.
Nguyên tắc điều trị:
Bệnh giun kim có tính chất gia đình và tập thể. Bệnh nhân rất dễ bị tái nhiễm, phải điều trị hàng loạt, phải kết hợp điều trị với các biện pháp vệ sinh, phòng bệnh. Giun kim sống kí sinh ở đại tràng, manh tràng, thuốc để điều trị giun kim phải khó bị phân hủy. Phải tính toán liều tối thiểu có tác dụng, phải dùng dài ngày, mới có kết quả.
Các thuốc hiện đang được sử dụng điều trị giun kim:
Piperazin, tím gentian, mebendazole (vermox), combantrin…
Dịch tễ học và phòng chống.
Dịch tễ học:
Giun kim do có chu kì phát triển trực tiếp không phụ thuộc vào những yếu tố địa lí khí hậu. Lứa tuổi trẻ em là lứa tuổi dễ mắc bệnh, tỉ lệ nhiễm cao nhất ở trẻ em trước tuổi đi học và học sinh. Bệnh có tính chất gia đình và cộng đồng nhà trẻ, cơ quan… Mật độ dân đông đúc là yếu tố quan trọng trong truyền bệnh và tái nhiễm bệnh. Trứng và ấu trùng giun kim có thể khuếch tán ở mọi chỗ: chăn, chiếu, mọi vật dụng như ghế ngồi, thậm chí tiền ở ngân hàng cũng có trứng giun.
Giun kim có thể phân bố rộng khắp trên toàn thế giới, tỉ lệ nhiễm rất cao ở những nước phát triển ở Bắc bán cầu.
Theo một số thống kê ở Oa-Sinh-Tơn, tỉ lệ nhiễm giun móc ở trẻ lên tới 35%. Mức độ tỉ lệ nhiễm có thể rất thay đổi tùy theo các điều kiện vệ sinh ở các địa phương. Ở Mĩ, tỉ lệ nhiễm thay đổi từ 36 – 65% (Gram). Ở Pháp tỉ lệ nhiễm thay đổi từ 18 – 33% trong đối tượng trẻ em (L.Balland).
Ở Việt Nam, tỉ lệ nhiễm giun kim chung gặp từ 18,5 – 47%. Tỉ lệ trẻ em ở thành phố mắc bệnh cao hơn ở nông thôn, nữ cao hơn nam (nam 40,89%, nữ 45,48%). Mật độ nhiễm tăng nhanh từ 1 – 5 tuổi và sau đó giảm dần (trẻ em dưới 1 tuổi: 1,88%, từ 1 – 5 tuổi: 51,16%). Trẻ em sống tập thể có tỉ lệ nhiễm cao hơn trẻ em sống ở gia đình. Điều tra một vườn trẻ thấy 62% móng tay trẻ em có trứng giun kim, 12% sách vở có trứng giun kim. Số lượng trứng phát tán rất cao, ở một chiếc chiếu đã tìm được tới 257 trứng giun.
Phòng chống:
Các biện pháp vệ sinh cá nhân:
Cần được đặc biệt quan tâm: rửa tay, cắt móng tay, không cho trẻ mút tay. Không mặc quần áo thủng đít, rửa sạch hậu môn bằng xà phòng. Quần áo ngủ, đồ lót phải thay giặt hàng ngày, đun nước sôi, phơi nắng…
các biện pháp vệ sinh tập thể:
Nên lau nhà, hạn chế quét nhà.
Tẩy rửa, khử trùng các dụng cụ công cụ công cộng: thau, chậu, đồ chơi… Tổ chức cho trẻ rửa tay trước khi ăn. Điều trị cho cả tập thể vườn trẻ, gia đình…
Nên duy trì tẩy giun cho các cháu định kì 3 tháng một lần (nhất là các cháu ở các nhà trẻ) bằng mebendazole hoặc combantrin…