Nội dung

Giun đũa người – ascaris lumbricoides

Giun đũa phân bố rộng khắp thế giới. Theo Stoll, (1947) có khoảng 664 triệu người mắc. Theo Tổ chức Y tế thế giới, đến năm 1994 trên thế giới đã có 1.471 triệu người nhiễm. Ở Việt Nam có khoảng 60 triệu người nhiễm (1994).

Đặc điểm hình thể.

Giun đũa trưởng thành

Giun đũa là một loại giun tròn có kích thước lớn. Giun cái dài 20 – 30 cm, giun đực 15 – 20 cm, thân hình ống, màu trắng sữa hay hồng nhạt.

Đầu: miệng có 3 môi bao quanh, xếp cân đối, 1 môi lưng, 2 môi bụng, ở giữa là miệng 3 cạnh.

Đuôi: ở mặt bụng có những núm cảm giác, đặc biệt ở giun đực nhiều hơn.

Bộ phận tiêu hoá: có thực quản, ruột, hậu môn.

Bộ phận bài tiết: gồm 2 ống chạy dọc 2 bên thân, đổ vào 1 lỗ ở phía đầu, mặt bụng.

Bộ phận thần kinh: có 1 vòng và những dây thần kinh.

Bộ phận sinh dục: giun cái gồm tử cung, túi chứa tinh, hai ống dẫn trứng, buồng trứng. Toàn bộ là những ống soắn vào nhau, ở giữa thân, tập trung vào 1 ống có vách dày là âm đạo, âm đạo mở ra mặt bụng, chỗ tiếp giáp 1/3 đoạn trước và giữa thân. Giun đực có tinh hoàn hình ống, tiếp theo là ống dẫn tinh, ống phụt tinh, đổ ra phía sau lỗ hậu môn.

Trứng giun đũa:

Hình trái xoan, kích thướcc: 45 – 75 x 35 – 58 µm. Có 5 lớp vỏ, lớp ngoài cùng xù xì là lớp albumine có tác dụng chống va chạm, nhuộm màu vàng của phân. Ba lớp trong nhẵn, cứng, chống tác động cơ học,… Lớp trong cùng có cấu trúc sợi, chỉ để lọt qua nước giữ lại các chất khác, có chức năng bảo vệ trứng chống lại các hoá chất. Trứng giun đũa không thụ tinh đa dạng, dài hơn, không cân đối, kích thước khoảng 90 x 40 µm, chiếm 15% tổng số trứng.

Hình 10.1: Trứng (A) và ấu trùng (B) giun đũa A. lumbricoides.

Đặc điểm sinh học.

Hình 10.2: Vòng đời sinh học của giun đũa A.lumbricoides.

Cả giun đũa đực, giun đũa cái đều sống kí sinh ở trong ruột non của người, ăn các chất trong ruột (dưỡng chấp), giun cái đẻ khoảng 240.000 trứng/ngày. Trứng theo phân ra ngoại cảnh, ở ngoại cảnh  trứng cần các yếu tố để phát triển: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, không khí,… Sau một thời gian ở ngoại cảnh, phôi phát triển thành ấu trùng.

Ở điều kiện ngoại cảnh thích hợp (đất xốp, nhiệt độ ẩm độ thích hợp), trứng giun đũa có thể sống được 5 – 6 năm thậm chí có thể tới 9 – 10 năm. Nhưng ở điều kiện không thuận lợi trứng giun đũa chỉ tồn tại được một thời gian ngắn.

Khi người nuốt phải trứng đã đến giai đoạn lây nhiễm, chất dịch tiêu hoá sẽ tác dụng lên vỏ trứng và giải phóng ra ấu trùng. Ấu trùng giun đũa chui qua thành ruột vào hệ thống tuần hoàn, theo tĩnh mạch cửa lên gan, ở gan 3 – 4 ngày rồi theo tĩnh mạch trên gan tới tĩnh mạch chủ vào tim phải. Từ tim phải ấu trùng theo động mạch phải vào phổi, chui qua thành mạch máu vào phế nang. Trong thời gian ở phổi ấu trùng phát triển lớn dần, thoát vỏ 2 lần, lần đầu sau 5 ngày, lần thứ hai từ ngày thứ 10 trở đi, rồi phát triển nhanh tại phế nang, có kích thước dài tới 1 – 2 mm, ấu trùng theo các phế quản lên khí quản, lên hầu, rồi theo thực quản xuống ruột non, cư trú ở đó, lột xác 4 lần, phát triển thành giun trưởng thành ở đó. Trong thời gian di cư, ấu trùng ăn máu. Thời gian kể từ khi trứng vào cơ thể, đến khi thành giun trưởng thành đẻ trứng mất khoảng 60 – 70 ngày. Giun đũa sống trong người được khoảng 12 – 18 tháng.

Tóm lại: giun đũa A. lumbricoides chỉ có một vật chủ. Trứng giun cần một thời gian phát triển ở môi trường ái khí để hoàn thành vòng đời. Khi di cư, ấu trùng có thể lạc chỗ qua các mao mạch phổi rồi về tim, qua vòng tuần hoàn lớn và có thể bị giữ lại ở các bộ phận, các mô của cơ thể (ví dụ: ở hạch bạch huyết, lách, não, tủy). Trong quá trình di cư ấu trùng có thể gây những phản ứng dị ứng cấp tính hoặc có thể tập trung ở thận rồi vào nước tiểu, ít khi qua được nhau thai vào bào thai. Giun trưởng thành kí sinh ở ruột non, hút thức ăn đã được tiêu hoá. Giun rất ít bám vào thành ruột. Để chống lại nhu động ruột, giun cong mình tựa vào thành ruột và hay thay đổi vị trí.

Đôi khi không dùng thuốc gì cũng có giun ra theo phân, là do giun già quá một năm, không sống lâu được ở trong người.

Vai trò y học.

Ấu trùng giun đũa:

Trong thời gian di cư trong cơ thể, ấu trùng giun có thể gây những tác hại ở nơi chúng cư trú. Khi tới phổi chui qua mạch máu vào phế nang, làm chảy máu, đồng thời gây viêm các tổ chức nhỏ xuất huyết, gây ho, đau ngực, có thể ho ra đờm có vệt máu. Kèm theo các triệu trứng quá mẫn, nổi ban sốt nhẹ, bạch cầu ái toan tăng cao. Trong thời kì này ấu trùng gây hội chứng Loeffler, biểu hiện lâm sàng giống như lao: ho khan, đau ngực, bạch cầu ái toan tăng cao có thể tới 40% hoặc hơn. Chụp X quang tim – phổi có hình ảnh thâm nhiễm giống lao, nhưng hình ảnh này tự mất đi sau 1- 2 tuần mà không cần điều trị gì. Hội chứng Loeffler thường gặp trong cộng đồng nhiễm giun đũa tái phát hoặc nhiễm theo mùa; nhưng hiếm thấy ở nơi có sự nhiễm quanh năm.

Giun trưởng thành:

Giun trưởng thành chiếm một phần thức ăn của cơ thể, làm suy yếu cơ thể nếu số lượng giun nhiều. Nhưng nếu số lượng giun ít, không thấy triệu chứng gì rõ rệt. Đôi khi thấy buồn nôn, ăn không tiêu, đau bụng vặt. Ở trẻ em hay gặp những triệu chứng: gầy còm, bụng trướng, phân nát, biếng ăn, kinh giật, ứa nước bọt. Đó là triệu chứng nhiễm độc thần kinh do chất độc của giun gây nên. Các chất allergen của giun đũa gây phản ứng quá mẫn ở phổi, da, niêm mạc mắt, niêm mạc ống tiêu hóa…

Có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của giun đũa với tiêu hóa mỡ và đạm của người. Tác giả Venkatachalam (1953), nghiên cứu trên các trẻ em nhiễm giun đũa, cường độ nhiễm trung bìn 26 giun/người, chế độ hàng ngày 30 – 50g protein, bị mất 4g/ngày, chưa kể giun đũa còn gây rối loạn chuyển hóa protein. Tác giả Tripathy (1971) thấy 7,2% nitrogen và 13,4% chất mỡ trong khẩu phần ăn bị mất do giun. Nhiều nghiên cứu cho thấy giun đũa chiếm một lượng vitamin A đáng kể, gây rối loạn chuyển hóa mỡ, thiếu hụt pyridine,  retinol, vitamin C, giảm hấp thu các chất dinh dưỡng, làm cơ thể vật chủ kém phát triển, suy giảm miễn dịch.

Hình ảnh giun đũa khổng lồ trong ruột bệnh nhân

Giun trưởng thành di chuyển vị trí: do số lượng nhiều, do pH ở ruột thay đổi hoặc do thuốc làm giun bị kích động, do người bị sốt cao, do ăn các chất cay, chua (ớt, hạt tiêu…), do gây mê, do điều trị không đúng, hoặc khi chỉ có một giun hay nhiều giun cùng giới (đực hoặc cái). Khi di chuyển vị trí, giun hay có khuynh hướng chui vào các lỗ ống mật, ống tụy gây những cơn đau bụng dữ dội; đôi khi gây biến chứng áp xe gan. Những biến chứng cơ học do giun đũa, có thể thống kê theo thứ tự tần số giảm dần là: tắc ống mật, viêm  ruột thừa, tắc ống tụy, nôn ra giun, tắc ruột, thủng ruột. Giun có thể chui lên phần trên đường hô hấp, vào cả vòi Eustache. Nhiều biến chứng có thể dẫn đến tử vong.

Khi điều trị, giun bị chết nát trong ruột, chất độc của giun có thể gây nhiễm độc nguy hiểm, thường gặp ở trẻ em. Khi điều trị giun cần dùng thuốc tẩy để tống ngay giun ra ngoài.

Chẩn đoán.

Lâm sàng:

Không chính xác do triệu chứng gây ra thường không điển hình.

Xét nghiệm:

Xét nghiệm phân tìm trứng giun là chủ yếu, tuy đơn giản nhưng có kết quả chính xác. Ngoài ra có thể siêu âm hoặc nội soi phát hiện giun trưởng thành ở các phủ tạng trong cơ thể.

Điều trị.

Có thể tiến hành điều trị lẻ tẻ, điều trị hàng loạt hoặc điều trị chọn lọc.

Ở Việt Nam hiện nay khả năng tái phát nhiễm giun đũa rất cao, cần điều trị định kì 3 tháng, 6 tháng một lần.

Các thuốc điều trị giun đũa bao gồm:

Santonin:                   

Thuốc này tác động đến hệ cơ của giun. Làm các cơ ruỗi bị rối loạn, giun bị thuốc tẩy tống ra. Thuốc chỉ tác động đến giun đũa trưởng thành, không tác động đến ấu trùng khi di cư và giun non.

Phản chỉ định: viêm loét dạ dày, tá tràng, đang sốt, thời kì cấp của các bệnh gan, thận…

Tinh dầu giun:

Lấy ở cây Chenopodium. Thuốc có tác dụng: trước tiên kích thích giun, sau đó làm tê liệt giun. Tinh dầu giun có chứa: 60 – 65% tinh chất ascaridol. Thuốc này độc nhưng tác dụng mạnh hơn santonin và có tác dụng điều trị cả giun móc. Không nên uống vào lúc đói, nên ăn nhẹ bằng thức ăn bột, kiêng mỡ, rượu. Lần điều trị sau phải cách lần điều trị trước ít nhất 3 tháng.

Phản chỉ định: các bệnh gan, thận, loét dạ dày, tá tràng, phụ nữ có thai.

Piperazin loại citrat hoặc adipinat:

Thuốc có tác dụng tốt với giun đũa, làm giun bị tê liệt dần dần và liệt hẳn sau 6 giờ. Piperazin không có tác dụng kích động giun, ít nguy hiểm hơn, là thuốc tốt điều trị giun đũa.

Oxy (O2): 

Phương pháp bơm oxy vào ruột có tác dụng tốt điều trị giun đũa. Oxy chứa đầy trong mô của giun, hình thành nước dưỡng oxy, giun có ít men catalaza nên không phân hủy được.

Levamisol: 

Là dẫn xuất của tetramisol, biệt dược là decaris. Thuốc này ức chế hoạt động của men succinat dehydrogenaza có ở trong cơ thể của giun, ngăn cản sự chuyển hóa của fumarat thành succinat dẫn đến tê liệt cơ. 

Mebendazole: 

Biệt dược: vermox, fugacar. 

Có tác dụng tốt với giun đũa và nhiều loại giun tròn khác. Thuốc ức chế sự hấp thu glucose của giun, làm liệt dự trữ glycogen, giảm hình thành ATP (là chất quan trọng trong việc duy trì sự sống, và sinh sản của giun.

Ngoài ra còn rất nhiều thuốc có tác dụng điều trị giun đũa như: thiabendazol, hydroxynaphtoate benphenium, embonat, pyrantel, albendazol

Dịch tễ học và phòng chống.

Tình hình nhiễm giun:

Bệnh giun đũa phổ biến khắp thế giới. Ở các nước châu Âu do điều kiện khí hậu lạnh, khô làm cho sự phát triển trứng giun đũa ở ngoại cảnh bị hạn chế nhiều. Theo các nghiên cứu sự tồn tại trứng giun ở vùng ngoại ô Mat-xơ-cơ-va cho thấy qua mùa lạnh số trứng giun đũa sống sót lại chỉ còn 1 – 2% và tới mãi tháng 4 tháng 5 sau mới có điều kiện phát triển thành trứng có ấu trùng. Ngoài điều kiện khí hậu, các nước châu Âu là nơi có mức sống cao, môi trường sạch, phân tươi đều được xử lí trong các hố xí nước và không còn sử dụng phân tươi làm phân bón. Do đó bệnh giun đũa hầu như không còn (dưới 1%). 

Tuy nhiên trong Đại chiến thế giới thứ II (1939 -1945), tỉ lệ bệnh giun đũa cũng cao, ở Italia qua xét nghiệm trẻ em có tỉ lệ nhiễm tới 12 – 75%, ở nông thôn Hà Lan có nơi tỉ lệ nhiễm giun đũa tới 45%. Ở Pháp, Đức, Bồ Đào Nha cũng thấy tỉ lệ bệnh giun đũa cao. Khi hết chiến tranh, bệnh giun đũa giảm nhanh  (theo Tổ chức Y tế thế giới). Các nước châu Phi và châu Mĩ La Tinh, do vấn đề ô nhiễm môi trường của bênh giun sán, do khí hậu nóng ẩm, do đời sống của nhân dân còn thấp nên nên tỉ lệ bệnh giun đũa vẫn còn xấp xỉ 8% (châu Mĩ La Tinh), 12% châu Phi. Các nước châu Á, tỉ lệ nhiễm giun đũa còn cao ở các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Bangladesh, Indonesia, Mianma, có nhiều vùng tỉ lệ nhiễm giun đũa lên tới 50% dân số.  

Ở Việt Nam: tỉ lệ nhiễm giun đũa đứng hàng đầu trong các bệnh giun lây truyền qua đất:

Miền Bắc: 

Vùng đồng bằng:    80 – 95%.

Vùng trung du:       80 – 90%.

Vùng núi:               50 – 70%.

Vùng ven biển:       70%.

Miền trung du: 

Vùng đồng bằng:          70,5%.

Vùng núi:                     38,4%.

Vùng ven biển:              12,5%.

Miền Nam:

Vùng đồng bằng:      54 – 60%.

Vùng Tây Nguyên:   10 – 25%.

Các kết quả điều tra cho thấy tình hình nhiễm giun thay đổi theo tuổi và nghề nghiệp. Trẻ em là lứa tuổi nhiễm giun cao nhất và nặng nhất. Nông dân tiếp xúc với phân đất có tỉ lệ nhiễm giun cao. 

Nguồn bệnh:

Người là vật chủ duy nhất của A.lumbricoides nên là nguồn bệnh duy nhất.

Mầm bệnh:

Mầm bệnh là trứng giun đũa đã phát triển, có ấu trùng ở bên trong. Tiềm năng sinh sản của giun đũa rất cao, một giun đũa cái đẻ ra 240.000 trứng/ngày, khối lượng trứng đẻ trong 1 năm của 1 giun đũa lớn hơn 1.700 lần trọng lượng của giun. 

Trứng giun đũa bắt buộc phải có giai đoạn phát triển ngoại cảnh vì cần các yếu tố: nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, dưỡng khí và các tia tử ngoại của ánh sáng. Tùy thuộc vào các yếu tố trên trứng giun đũa có thể sống được trên 9 năm ở điều kiện thích hợp hoặc vài giờ ở điều kiện bất lợi.

Nhiệt độ thích hợp nhất cho giun đũa phát triển là: 24 – 25oC, ở thời gian này sau 12 – 15 ngày trứng đã phát triển có ấu trùng, có khả năng gây nhiễm.

Trứng có thể phát triển được từ 12oC – 36oC. Dưới 12oC không phát triển được. – Ẩm độ thích hợp nhất là 80% trở lên. 

Trứng giun đũa có sức chịu đựng cao ở ngoại cảnh trong điều kiện không thuận lợi vẫn có thể sống được 1 năm:

Trong thuốc sát trùng lysol 5% sống trên 7 ngày, formalin 6% không có khả năng diệt trứng; thuốc tím clo, cresyl, với liều khử trùng (diệt được vi khuẩn) không diệt được trứng. 

Nhiệt độ 60oC diệt được trứng trong vài giờ. Nhiệt độ 45oC ở các hố ủ phân phải 1 – 2 tháng mới diệt được trứng giun đũa.

Trong nước, trứng giun đũa sống được 6 – 10 tháng. Nước muối, dưa chua, axit nhẹ không diệt được trứng giun đũa.

Người, gia súc, gia cầm, côn trùng (ruồi, gián…) thường xuyên làm ô nhiễm trứng giun đũa ra môi trường: đất, nước, không khí. Người ta xét nghiệm 935 mẫu đất (100g/mẫu), xung quanh các nhà ở của dân Ba Lan thấy 71% có trứng giun đũa, với số lượng trung bình 1,8 – 2,8 trứng/1g đất.

Đường lây:

Lây qua đường tiêu hóa, theo thức ăn, rau quả, nước bị ô nhiễm… nhưng hay gặp nhất là qua các thực phẩm tươi sống, rau, hoa quả sống, các thực phẩm muối: dưa muối, hành muối… cả các thức ăn chín dính bụi mang trứng giun, ruồi vận chuyển trứng giun làm ô nhiễm thức ăn.

Phòng chống:

Phòng chống tập thể:

Quản lí tốt nguồn phân. Không đi ngoài bừa bãi, dùng hố xí đúng quy cách:

hố xí tự hoại, hố xí thấm dội nước kiểu Sulav, hố xí Biogaz…

Thức ăn chế biến hợp vệ sinh, che bụi, che ruồi…

Không ăn thức ăn rau sống, chưa nấu chín…

Giáo dục ý thức vệ sinh.

Vệ sinh cá nhân: rửa tay trước khi ăn và sau khi đi ngoài, không ăn thức ăn sống, không đảm bảo vệ sinh, không uống nước lã.

Kết hợp giải quyết nguồn bệnh: điều trị định kì, điều trị hàng loạt.