Bệnh trứng tóc (piedra) do hai loại nấm gây ra là Piedraia hortae và Trichosporon beigelii.
Bệnh trứng tóc đen phổ biến ở những vùng nóng ẩm như Trung và Nam Mĩ, Đông Nam Á, bệnh trứng tóc trắng xuất hiện rải rác khắp nơi trên thế giới. Ở Việt Nam thường gặp trứng tóc đen, thường gặp ở người trưởng thành, lây lan trong gia đình khi dùng chung lược, bàn chải tóc…
Đặc điểm sinh học.
P.hortae gây ra trứng tóc đen (black piedra) ở người và linh trưởng (primates), ít phân lập được P.hortae trong môi trường tự nhiên.
T.beigelii gây ra trứng tóc trắng (white piedra), nấm có thể gặp trong đất, nước, trên thực vật… đôi khi có thể thấy nấm hoại sinh trên da, miệng người.
Vai trò y học.
Bệnh trứng tóc xuất hiện ở cả nam lẫn nữ, đặc biệt ở những người hay đội mũ hoặc đi ngủ khi tóc còn ẩm.
Hình 18.11: Trứng tóc.
1.trứng tóc trắng, 2. trứng tóc đen.
a)Sợi tóc, b)Nấm bao quanh sợi tóc.
Trứng tóc đen chỉ gặp ở tóc, những sợi tóc sờ vào thấy thô ráp, có các hạt hình thoi, màu nâu, đen bám chặt và bao quanh sợi tóc, kích thước có thể tới vài mm, thường một đầu to hơn, phía đối diện thu nhỏ lại, cứng, bám cách chân tóc 2 – 4 cm, khi vuốt bằng ngón tay thấy vướng.
Trứng tóc trắng thường gặp ở vùng mặt, lông sinh dục. Những hạt mềm, trắng hoặc hơi vàng, thường dày nhất ở trung tâm, kích thước nhỏ hơn và dễ bị tuột khỏi sợi tóc hơn so với trứng tóc đen. Sợi tóc yếu và dễ bị gãy ở chỗ có hạt.
Chẩn đoán.
Xét nghiệm trực tiếp: nhổ sợi tóc bị bệnh, soi dưới kính hiển vi nếu là trứng tóc đen sẽ thấy những hạt nhỏ là một khối nấm gồm những sợi nấm màu đen, thường gẫy tạo những bào tử đốt hình chữ nhật kích thước 4 – 8 μm, có nhiều túi (asci) chứa 8 bào tử túi (ascospore). Nếu là trứng tóc trắng thấy những sợi nấm nhạt màu, bào tử đốt hình đa giác, kích thước 2 – 4 μm.
Nuôi cấy: trong môi trường Sabouraud’s dextrose agar, nếu là P.hortae sau 2 – 3 tuần thấy khuẩn lạc màu đen, nâu đen, nếu là T.beigelii khuẩn lạc màu trắng, vàng hoặc màu kem, trơn, có rãnh, mềm như nhung, màu đục ở ngoại vi.
Điều trị.
Cần cắt bỏ các sợi tóc bị bệnh, chải tóc bằng mỡ benzosali, dung dịch axit salicylic 1 – 2%, hoặc gội đầu bằng xà phòng sastid, nizoral hay kelog.
Trong invitro P.hortae nhạy cảm terbinafine, có thể dùng với liều 250mg/ngày trong 6 tuần.