Trypanosoma kí sinh ở máu và mô của động vật có xương sống và người.
Chúng cũng có thể kí sinh ở bộ máy tiêu hoá của động vật không xương sống
(côn trùng hút máu). Có ba loại trùng roi Trypanosoma kí sinh ở người:
Trypanosoma gambiense, Trypanosoma rhodesiense, Trypanosoma cruzi.
Trypanosoma gambiense
Trùng roi này gây bệnh ngủ ở Trung và Tây châu Phi.
Đặc điểm hình thể.
Tất cả các giai đoạn kí sinh ở động vật có xương sống và không xương sống, kí sinh trùng đều có roi.
Trùng roi thân dài, thon hai đầu. Kích thước dài: 14 – 33 µm, ngang 1,5 – 3,5 µm.
Từ thể gốc roi ở phía đuôi đi ra một màng sóng theo dọc thân đến đầu, tận cùng là roi tự do ở ngoài thân. Nhân ở giữa thân. Ở giai đoạn cấp tính của bệnh, trong thân trùng roi không thấy có hạt. Thấy rõ hạt trong thân trùng roi ở những bệnh nhân mạn tính, sự có mặt và số lượng hạt liên quan đến sự đáp ứng miễn dịch của cơ thể đối với trùng roi (hình 5.14).
Đặc điểm sinh học.
Trùng roi kí sinh ở máu, hạch bạch huyết, dịch tủy sống, tổ chức võng mạc nội mô của gan, lách, não… Trypanosoma không xâm nhập vào tế bào mô mà chỉ ở khoảng gian bào não, hạch. Số lượng trùng roi tăng nhanh bằng hình thức sinh sản vô giới. Khi ruồi Glossina (ruồi Tse – Tse) đốt người, hút máu sẽ hút cả trùng roi vào dạ dày, ở đó trùng roi tiếp tục sinh sản vô giới, sau đó tập trung lên tuyến nước bọt của ruồi. Sau khi ruồi hút máu 20 ngày, ruồi có khả năng truyền được bệnh. Khi ruồi đốt người lành, trùng roi theo nước bọt của ruồi vào máu người kí sinh gây bệnh .
Vai trò y học.
Trypanosoma được ruồi Glossina (cả con đực và con cái) truyền vào người khi hút máu. Trypanosoma sinh sản tại nơi xâm nhập, rồi từ đó phát tán theo đường máu và lympho, cuối cùng chúng xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương, vào dịch não tủy.
Khi trùng roi Trypanosoma giambiense kí sinh ở người sẽ gây ra nhiều biểu hiện lâm sàng một cách trường diễn sau thời gian ủ bệnh trung bình 6 – 14 ngày, có thể chia ra làm 3 giai đoạn như sau:
Trùng roi chỉ có hoặc chủ yếu ở máu, lúc này bệnh nhân có các biểu hiện như: sốt không đều, không có mồ hôi, người cảm thấy khó chịu.
Trùng roi chủ yếu ở các hạch bạch huyết, khi đó có biểu hiện: nổi hạch vùng cổ, vùng dưới xương đòn, vùng nách hay bẹn, không đau, di động.
Trùng roi xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương, với các biểu hiện lâm sàng: nhức đầu, thẫn thờ, ủ rũ, rối loạn cảm giác, có cảm giác kiến bò, chuột rút, sợ ánh sáng, tăng cảm giác đau, rối loạn giấc ngủ, lúc đầu là đảo lộn nhịp độ ngủ và dần dần có các cơn buồn ngủ xuất hiện và phát triển. Bệnh nhân có thể lăn ra ngủ ngay cả lúc đang ăn, đang đứng. Bệnh kéo dài vài năm và thường dẫn tới tử vong.
Chẩn đoán.
Lấy bệnh phẩm là: máu, dịch não tủy, hạch để xét nghiệm tìm trùng roi Trypanosoma gambiense. Lấy máu khi bệnh nhân đang sốt làm tiêu bản nhuộm giemsa. Có thể sử dụng các phản ứng huyết thanh miễn dịch để chẩn đoán.
Điều trị.
Có thể điều trị bằng các dẫn xuất của asen: tryparsamid, melarsen, suramin, pentamiline, furacine…
Dịch tễ học và phòng chống.
Nguồn bệnh: là người bệnh và một số loài động vật có vú nuôi trong nhà (chó, lợn, dê, cừu, trâu, bò, ngựa…). Những động vật này thường chỉ là vật mang trùng, không hoặc ít khi mắc bệnh. Bệnh Trypanosoma gambiense giới hạn ở một số vùng của châu Phi: Senegan, Angola, Tanzania, Congo.
Đường lây: vật trung gian truyền bệnh là ruồi hút máu Glossina (Tse – Tse) gồm các loài: G.palpalis, G.morsitans, G.tachinoides…
Người cảm thụ: mọi lứa tuổi khi bị nhiễm trùng roi đều có thể mắc bệnh. Bệnh do Trypanosoma gambiense gây ra là bệnh có ổ bệnh thiên nhiên.
Phòng chống: điều trị kịp thời cho người bệnh. Chú ý phát hiện trùng roi ở một số động vật nuôi. Chống ruồi đốt bằng cách mặc che kín, nằm màn, dùng các thuốc xua diệt côn trùng. Uống thuốc phòng: pentamidin.
Trypanosoma rhodesiense
Hình thể, đặc điểm sinh học của Trypanosoma rhodesiense cũng giống như Trypanosoma gambiense. Bệnh do Trypanosoma rhodesiense gây ra cũng tương tự như Trypanosoma gambiense gây ra, nhưng diễn biến cấp tính hơn.
Sốt cao, phù nề, sút cân, suy nhược nhanh, viêm cơ tim là những triệu chứng thường gặp. Điểm khác cơ bản là bệnh ngủ do Trypanosoma rhodesiense thường gặp ở miền Đông châu Phi.
Chẩn đoán, điều trị, phòng chống tương tự như đối với bệnh do Trypanosoma gambiense.
Trypanosoma cruzi
Trypanosoma cruzi (còn gọi là Schizotrypanum cruzi) gây bệnh ở Nam Mĩ.
Đặc điểm hình thể.
Trong cơ thể người, Trypanosoma cruzi có hai dạng: ở máu có hình thể điển hình của trùng roi (có roi dài và phần roi ngoài thân ngắn – promastigotes).
Nhưng trong mô, Trypanosoma cruzi không có roi – amastigotes, hình tròn hoặc hình trái xoan, kích thước 3 – 4 m. Ở côn trùng, trung gian truyền bệnh và trong môi trường nuôi cấy, T.cruzi ở dạng promastigotes.
Đặc điểm sinh học.
Chu trình phát triển của T.cruzi trải qua 2 vật chủ (hình 5.16).
T.cruzi kí sinh ở máu, ở các tế bào lưới nội mô của lách, hạch bạch huyết, cơ tim của người và động vật.
Trùng roi tăng nhanh số lượng bằng hình thức sinh sản vô giới. Vật môi giới truyền bệnh là loài bọ xít hút máu Triatoma, còn có thể là rệp, chúng hút máu người và hút luôn mầm bệnh, T.cruzi vào đến ruột bọ xít, rệp, sinh sản nhanh thành dạng promastigotes. Bọ xít, rệp không truyền thẳng mầm bệnh vào người và động vật khi hút máu. Trypanosoma ở phân, nước tiểu của bọ xít, rệp thải ra khi đang hút máu sẽ xâm nhập vào cơ thể người qua vết đốt hoặc vết xước da (do ngứa gãi).
Hình 5.16: Vòng đời Trypanosoma cruzi.
Vai trò y học.
Bệnh do Trypanosoma cruzi gây ra được Chagas mô tả có những biểu hiện lâm sàng như sau:
Thể cấp tính:
Thời gian ủ bệnh từ 5 – 20 ngày.
Sau thời gian ủ bệnh âm thầm, bệnh biểu lộ bằng phản ứng tại chỗ xâm nhập của Trypanosoma cruzi: phù nề do viêm, hạch trong vùng bị đốt nổi lên, thường vùng mặt với viêm mí mắt một bên.
Các dấu hiệu này kéo dài khoảng một tháng. Sau đó kí sinh trùng theo máu phát tán khắp cơ thể, với các biểu hiện:
Sốt cao 38 – 400C, sốt không đều, sốt kéo dài khoảng 2 tuần.
Phù mặt, chi; điển hình là phù một bên mí mắt.
Viêm cơ tim cấp: nhịp tim nhanh, tiếng tim nhỏ, huyết áp hạ, tim to.
Gan, lách, hạch sưng to và những dấu hiệu viêm màng não – não.
Hình 5.17: Vòng đời T.cruzi trong người và rệp.
Bệnh có thể dẫn đến tử vong sau 2 – 4 tuần do các biến chứng.
Thể mạn tính:
Nếu bệnh nhân vượt qua được giai đoạn cấp tính, các triệu chứng lâm sàng giảm dần, nhưng không khỏi hẳn. Bệnh chuyển qua giai đoạn mạn tính. Bệnh tiến triển âm thầm và kéo dài hàng chục năm.
Trong thời gian này, bệnh có thể tái xuất hiện với những biến chứng, di chứng ở não, tim và hệ tiêu hoá:
Di chứng ở tim: bệnh nhân có biểu hiện hồi hộp, đau vùng trước tim, to tim toàn bộ.
Di chứng ở ruột: thực quản và đại tràng phì đại.
Chẩn đoán.
Xét nghiệm máu, mô làm tiêu bản nhuộm giemsa phát hiện trùng roi Trypanosoma cruzi. Hoặc sử dụng phản ứng huyết thanh miễn dịch chẩn đoán.
Điều trị.
Những dẫn xuất của asen không có hiệu quả điều trị bệnh Chagas. Nhưng thuốc thuộc nhóm 8 – aminoquinolein có hiệu lực điều trị bệnh Chagas.
Nifurtimox (lampit) hoặc 2 – nitroimidazole (radanil): điều trị ở giai đoạn đầu.
Dịch tễ học và phòng chống.
Bệnh Chagas chỉ phổ biến ở vùng Nam Mĩ, cận nhiệt đới (Brasil, Achentina, Bolivia, Paraguay, Uraguay). Người ta ước lượng có khoảng 10 triệu người mắc phải, bệnh thường gặp ở vùng đói nghèo, điều kiện sinh hoạt nhà lá, vách đất vì nơi này côn trùng truyền bệnh dễ trú ẩn, sinh sản.
Nguồn bệnh: là người, ngoài ra có thể là chó, mèo, chuột, khỉ…
Đường lây: do bọ xít hút máu (Triatoma) và rệp truyền bệnh, có thể do truyền máu, tai nạn nghề nghiệp trong phòng thí nghiệm, qua sữa mẹ, hoặc qua mảnh ghép.
Người cảm thụ: mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh.
Phòng chống: phát hiện và điều trị bệnh nhân. Chống bọ xít hút máu và rệp đốt bằng mọi cách. Cải tạo điều kiện sống, vệ sinh môi trường phá nơi cư trú và sinh sản của rệp.
Trùng roi đường máu ở động vật gần người có thể gây bệnh cho người (trypanosoma lewisi)
Trypanosoma lewisi là loại trùng roi kí sinh ở động vật gậm nhấm (chủ yếu là chuột). Vật chủ trung gian truyền bệnh là bọ chét Ceratophyllus fasciatus. Bệnh lây từ chuột này sang chuột khác là do trùng roi từ phân bọ chét thải ra xâm nhập vào chuột qua vết đốt hoặc vết xước ở da.
Người có thể mắc bệnh do trùng roi Trypanosoma lewisi.
Năm 1986, Bộ môn Sốt rét – KST – CT, Học viện Quân y cùng với khoa truyền nhiễm Bệnh viện 103 đã phát hiện một bệnh nhân nữ mắc bệnh trùng roi Trypanosoma lewisi vào viện với chẩn đoán sốt cao chưa rõ nguyên nhân. Bệnh nhân làm ruộng, ở xã Đại Thanh, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
Bệnh nhân có các triệu chứng: ngày sốt, ngày không sốt, nhiệt độ dao động từ 37 – 410C. Gan, lách sưng to. Các triệu chứng tâm thần: khóc, la hét, hoảng sợ, hoang tưởng lo sợ bị chồng đầu độc. Thiếu máu, hồng cầu: 2.000.000/ml máu, bạch cầu: 3.500 – 4.000/ml máu. Xét nghiệm máu phát hiện được Trypanosoma.