Nội dung

Xét nghiệm triglycerid

TRIGLYCERID

( Triglycéridémie / Triglycerides)

Nhắc lại sinh lý

Triglycerid (triacylglycerol [TGA]) là một ester do glycerol kết hợp với ba axit béo tạo nên. Phân tử glycerol có ba nhóm hydroxyl (HO -). Mỗi axit béo có một nhóm các carboxyl (COOH). Trong phân tử triglycerid, các nhóm hydroxyl của glycerol kết hợp với các nhóm carboxyl của axit béo tạo nên các đầu nối ester.(hình 1)

Hình 1. Triglycerid

     Triglycerid được tổng hợp ở gan từ axit béo, protein và glucose. Chất được trữ trong mô mỡ và cơ và có thể được đem tái sử dụng như một nguồn cung cấp năng lượng khi cần (phân hủy một phân tử triglycerid cung cấp một năng lượng gấp đôi so với phân tử protein hay carbohydrat: 9 kcal/g hay 38 kJ/g so với 4,5 kcal/g. Trong tình trạng nhịn ăn và ở người bình thường, phần lớn lượng triglycerid huyết tương tập trung VLDL. Tăng triglycerid trong máu có thể phản ánh tình trạng quá tải VLDL song cũng có thể là hậu quả của một tích tụ bất thường khi đói của các chylomicron.

Hình 2: Chuyển hóa triglyceride trong cơ thể

Mục đích và chỉ định xét nghiệm

     Triglycerid thường được định lượng để giúp đánh giá tình trạng cân bằng giữa lipid đưa vào và chuyển hóa lipid trong cơ thể.

Cách lấy bệnh phẩm

XN được tiến hành trên huyết thanh. Yêu cầu BN phải nhịn ăn 12h trước khi lấy máu XN. BN không được uống rượu hay các chất có cồn trong vòng 24h trước khi lấy máu XN.

Giá trị bình thường

  • Bình thường:
  • Giới hạn cao: 150 – 199 mg/dL hay 1,70 – 2,25  mmol/L.
  • Cao: 200 – 499 mg/dL hay 2,26 – 5,64 mmol/L.
  • Rất cao: ≥ 500 mg/dL hay ≥ 5,65 mmol/L.

Tăng nồng độ máu

Các nguyên nhân chính thường gặp là:

  • Nghiện rượu.
  • Xơ gan.
  • ĐTĐ.
  • Liên quuan đến chế độ ăn: Tỉ lệ protein thấp, tỉ lệ carbohydrat cao.
  • Tăng lipoprotein máu có tính chất gia đình.
  • Bệnh lý kho dự trữ glycogen (glycogen storage disease).
  • Bệnh Gout.
  • Tăng huyết áp.
  • Suy giáp.
  • Nhồi máu cơ tim.
  • Hội chứng thận hư.
  • Viêm tụy.
  • Bệnh thận.

Giảm nồng độ triglycerid máu

Các nguyên nhân chính thường gặp là:

  • Không có ß lipoprotein máu (abetalipoproteinemia)
  • Nhồi máu não.
  • Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
  • Do chế độ ăn: Tỉ lệ mỡ thấp.
  • Cường giáp.
  • Hội chứng giảm hấp thu.
  • Suy dinh dưỡng.

Các yếu tố góp phần làm thay đổi kết quả xét nghiệm

  1. Có thai và lấy mẫu máu khi BN không nhịn ăn sẽ làm giảm nồng độ triglycerid máu.
  2. Các thuốc có thể làm tăng nồng độ triglycerid máu: Rượu, thuốc chẹn bêta- giao cảm, cholestyramin, corticosteroid, estrogen, thuốc ngừa thai uống, thuốc lợi tiểu thiazid.
  3. Các thuốc có thể làm giảm nồng độ triglycerid máu: acid ascorbic, asparaginase, colestipol, clofibrat, dextrothyroxin, metformin, niacin.

Lợi ích của xét nghiệm định lượng triglycerid máu

  1. XN cơ bản để đánh giá bilan lipid máu. Định lượng nồng độ triglycerid máu luôn được làm cùngvới định lượng cholesterol máu để giúp xác định các biến đổi bệnh lý của lipoprotein máu.
  2. Nồng độ triglycerid luôn được coi như một thành phần của bảng phân tích lipid máu ( bao gồm cholesteron toàn phần, lipoprotein tỉ trọng thấp [LDL Cholesterol], lipoprotein tỉ trọng cao [HDL Cholesterol] và triglycerid). Triglycerid cũng được sử dụng để tính toán nồng độ LDL Cholesterol: LDL Cholesterol(mmol/L) = Cholesterol toàn phần – HDL Cholesterol – (triglycerid/5).
  3. Nồng độ triglycerid máu là một thông số để đánh giá các nguy cơ động mạch vành. Nồng độ triglycerid cao sẽ kết hợp với nguy cơ bị bệnh lý tim mạch và đột quỵ cao hơn. Tình trạng tăng triglycerid máu thường được gặp đồng thời với tình trạng ĐTĐ và béo phì và các tình trạng này cũng là các yếu tố nguy cơ tim mạch đối với BN.

Các hướng dẫn thực hành lâm sàng dựa trên y học bằng chứng

Báo cáo lần thứ ba của Chương trình giáo dục Quốc gia (Mỹ) về cholesterol (NCEP) theo ý kiến đồng thuận của các chuyên gia để phát hiện, đánh giá và điều chỉnh tình trạng cholesterol  máu cao ở người lớn (ATP III) khuyến cáo:

  1. Ở tất cả các đối tượng người lớn từ 20 tuổi trở nên, cần XN tiến hành bilan mỡ máu lúc đói (Cholesterol toàn phần, HDL Cholesterol , triglycerid) x 5 năm một lần.
  2. Chiến lược điều trị đối với BN bị tăng triglycerid phụ thuộc vào nguyên nhân tăng triglycerid máu và mức độ nặng của tình trạng này.
  • Đối với các đối tượng bị tăng triglycerid máu, đích điều trị cấp một là phải đạt được ngưỡng đích đối với nồng độ LDL cholesterol.
  • Khi triglycerid ở mức giới hạn cao (150 – 199mg/ dL), cần chú trọng tới khuyến cáo BN giảm cân và tăng cường hoạt động thể lực.
  • Đối với triglycerid ở mức cao (200 – 499 mg/dL), thông số cholesterol không phải là HDL (non – HDL cholesterol) trở thành đích điều trị cấp hai cần đạt. Bên cạnh việc khuyến cáo BN giảm cân và tăng cường hoạt động thể lực, có thể xem xét điều trị bằng thuốc cho các đối tượng có nguy cơ cao để đạt được đích điều trị đối với cholesterol không phải là HDL.
  • Nếu đối tượng thuộc nguy cơ cao có nồng độ triglycerid máu cao hay HDL cholesterol thấp, xem xét điều trị kết hợp giữa một fibrat hay axit nicotinic với một thuốc làm giảm LDL cholesterol.
  • Trong một số trường hợp hãn hữu, khi bệnh nhân có nồng độ triglycerid rất cao (≥ 500mg/dL), đích điều trị khởi đầu là dự phòng viêm tụy cấp bằng cách làm giảm nhanh nồng độ triglycerid máu. Phác đồ điều trị này đòi hỏi một chế độ ăn chứa rất ít mỡ (≤ 15% khẩn phần cấp calo), giảm cân, tăng cường hoạt động thể lực và thường xuyên kết hợp với dùng thuốc làm giảm triglycerid máu (fibrat hay acid nicotinic). Chỉ sau khi nồng độ triglycerid đã được hạ thấp xuống

Các cảnh báo lâm sàng

  • Một nồng độ triglycerid máu ≥ 150 mg/dL là một trong các yếu tố nguy cơ của hội chứng chuyển hóa. Cho bệnh nhân ăn một khẩu phần chứa mỡ toàn phần cao hơn (chủ yếu dưới dạng mỡ không bão hòa) có thể làm giảm triglycerid và làm tăng HDL cholesterol ở các đối tượng bị hội chứng chuyển hóa.
  • Các BN bị ĐTĐ song không kiểm soát nồng độ glucose máu thường sẽ có nồng độ triglycerid rất cao. Tiến hành kiểm soát nồng độ glucose máu sẽ có tác động kết hợp làm hạ thấp nồng độ triglycerid. Một khi đã đưa được nồng độ glucose máu về giới hạn bình thường, cần đánh giá lại  nồng độ triglycerid máu để quyết định có cần điều trị hay không tình trạng này.